Luận văn Vai trò tín dụng ngắn hạn và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT

Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động tín dụng của chi nhánh NHCT-HBT, em đãnghiên cứu và tìm hiểu về tình hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT với để tài “Vai trò tín dụng ngắn hạn và iải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT”. Bài viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn, tập trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3 phần: ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn. ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT. ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHCTII-HBT.

pdf101 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2934 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò tín dụng ngắn hạn và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn: Ngân hàng công thương chi nhánh II và vai trò trong tín dụng ngắn hạn Lời nói đầu Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do nợ tồn đọng từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát sinh. Năm 2001 , theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM Việt Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp tục đổi mới hơn nữa. Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, chi nhánh NHCTII- HBT cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải khắc phục trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ trọng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng lên trong các năm gần đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT là điều hết sức cần thiết để để chi nhánh phát triển vững chắc. Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động tín dụng của chi nhánh NHCT-HBT, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT với để tài “Vai trò tín dụng ngắn hạn và iải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT”. Bài viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn, tập trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHCTII- HBT. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3 phần: ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn. ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT. ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHCTII- HBT. Em xin chân thành cảm ơn GS – Tiến sĩ Cao Cự Bội đ• tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Em cũng xin cảm ơn cán bộ công tác tại NHCTII-HBT đ• tạo mọi đIều kiện và tận tình giúp đỡ trong thời gian em thực tập và hoàn thành bài viết này. Chương I: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn 1. Tổng quan về Ngân Hàng Thương Mại. 1.1 Khái niệm về NHTM. Thuật ngữ Ngân hàng có từ rất lâu, trước khi nền sản xuất hàng hoá ra đời. Tuy nhiên, ngay từ đầu nó không mang cái tên Ngân hàng. Xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống và công việc buôn bán mà các thương gia đã lập ra những nơi để đổi tiền, nhận tiền gửi và thu phí của người gửi, họ giúp chi trả và thanh toán hộ người gửi và ba nghiệp vụ đầu tiên hình thành, đó là: đổi tiền, nhận tiền gửi và thanh toán hộ. Lúc đầu người gửi tiền phải trả một khoản tiền phí cho các thương nhân này, nhưng về sau do áp lực cạnh tranh và do các khoản tiền gửi này sinh lợi nên các thương nhân này đã trả phí cho người gửi để tăng khả năng huy động. Qua một thời gian các thương gia này thấy rằng: luôn có một lượng tiền mặt ổn định đọng trong két họ. Trong khi đó một số thương gia buôn bán lại có nhu cầu vay. Vì vậy họ cho vay để kiếm thêm lợi nhuận, chính là mầm mống xuất hiện những nghiệp vụ nền tảng của NHTM. Hoạt động và vai trò của ngân hàng không phải là bất biến, mà liên tục phát triển theo các điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng càng ngày càng phát triển, đã tạo một nghành công nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đó là NHTM. Nền kinh tế càng ngày càng phát triển, nhu cầu ngày càng phong phú và được nâng cao, chính vì vậy bên cạnh những nghiệp vụ cơ bản, NHTM đ• cho ra đời nhiều dịch vụ mới như: Dịch vụ bảo lãnh L/C, nghiệp vụ thuê mua, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, chiết khấu hối phiếu… Hai ngân hàng thương mại đầu tiên trên thế giới đó là Banca di Baralone(1401) và Banca di Valencia(1409) cả hai đều ở Tây Ban Nha. Mặc dù NHTM ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà kinh tế vẫn chưa nhất trí với nhau về dịnh nghĩa ngân hàng bởi do sự khác biệt về luật pháp, số lượng các nghiệp vụ, bối cảnh kinh tế, xã hội của các vùng khác nhau… Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của ngân hàng. Cùng với các ngân hàng, kinh doanh và làm dịch vụ còn có những tổ chức tài chính kinh doanh những loại hình tương tự như công ty bảo hiểm các loại, các hiệp hội tiết kiệm cho vay , các quỹ hưu trí, các tổ chức tín dụng tiêu dùng, các quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng… Tuy nhiên trong bất cứ nước nào trên thế giới, thì ngân hàng thương mại vẫn là tổ chức tài chính lớn nhất, quan trọng nhất trong giới kinh doanh tiền tệ. Việt Nam, theo pháp lệnh “ NH, HTX tín dụng và công ty tài chính” ban hành ngày24/05/1990 thì “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Còn theo luật các tổ chức tín dụng ban hành26/12/1997 NHTM là một doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng đó là “ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”. Ngân hàng ra đời ở nước ta năm1951 với tên gọi “Ngân hàng quốc gia Việt Nam”. Sự ra đời ngân hàng Việt Nam mang nét đặc trưng riêng biệt: Ngân hàng nhà nước ra đời vừa làm chức năng quản lý tiền tệ vừa làm chức năng của NHTM( ngân hàng một cấp). Cho đến 26/03/1988, nghị định 53/HĐBT quyết định chia hệ thống ngân hàng Việt Nam thành 2 cấp, tách bạch chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ(Ngân hàng nhà nước) và chức năng kinh doanh tiền tệ(Ngân hàng thương mại). Trong những năm qua cùng với sự phát triển của đất nước, nghành ngân hàng đã có những phát triển vượt bậc góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Ngành ngân hàng ngày càng hiện đại về công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng, tham gia rộng rãi vào thị trương tiền tệ trong khu vực và quốc tế. 1.2 Chức năng của NHTM. Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó. Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung có các chức năng sau: 1.2.1 Chức năng tạo tiền. Để phục vụ cho lưu thông, giúp cho nền kinh tế phát triển, NHNN đưa một khối lượng tiền nhất định vào trong lưu thông. Lượng tiền đó phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, nhưng lượng tiền cung ứng vượt quá nhu cầu của nền kinh tế sẽ gây ra lạm phát có hại cho nền kinh tế. Với một lượng tiền cung ứng ban đầu, thông qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay của hệ thống NHTM đ• làm tăng lượng tiền cung ứng so với ban đầu. Đây là chức năng chủ yếu của NHTM, chức năng tạo tiền. Và thông qua chức năng này của NHTM mà NHNN với những công cụ của mình như dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu… có thể thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia nhằm đưa ra một khối lượng tiền phù hợp, ổn định được giá trị đồng tiền. 1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán. Với hoạt động này của mình, NHTM đã tạo điều kiện cho việc thanh toán giữa các tổ chức cá nhân… được thuận tiện và đặc biệt là tiết kiệm được chi phí cho họ cũng như tiết kiệm chi phí cho xã hội. Bởi vì việc thanh toán qua ngân hàng được thực hiện tập trung, chuyên nghiệp và có công nghệ cao. Và cũng qua hoạt động thanh toán NHTM thu được những lợi ích nhất định. Ngày nay hoạt động thanh toán ngày càng phát triển tại các NHTM. Việc thanh toán không dùng tiền mặt được các ngân hàng khuyến khích. 1.2.3 Hoạt động huy động tiền gửi. Để có được nguồn vốn để thực hiện việc đầu tư tín dụng, NHTM đã tiến hành đã tiến hành huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Việc huy động vốn này giúp cho NHTM có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu của nền kinh tế. Tạo ra thu nhập cho người gửi tiền là một lợi ích mà hoạt động huy động vốn của ngân hàng mang lại. Những người gửi tiền vào NHTM sẽ được nhận tiền l•i, tạo thu nhập cho những khoản tiền nhàn rỗi của họ. Ngày nay để huy động được nhiều tiền gửi, NHTM đã phát triển rất nhiều loại tiền gửi khác nhau: Có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi tiết kiệm… 1.2.4 Hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động chủ yếu của NHTM bởi nó tạo ra thu nhập chính cho NHTM, duy trì sự tồn tại của NHTM. Đây cũng là hoạt động cơ bản và lâu dài của NHTM. NHTM dùng những khoản vốn huy động được để cho vay đối với nền kinh tế, nhằm giúp những người có nhu cầu có được vốn để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh của mình hoặc đảm bảo các nhu cầu khác. Với việc cho vay này NHTM đã tạo cho sự phát triển kinh tế được thông suốt và hiệu quả. Bởi nếu không có nguồn vốn vay từ ngân hàng thì rất nhiều doanh nghiệp không thể tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh được. Hầu như mọi doanh nghiệp hiện nay đều vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó hoạt động cho vay mang lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng lãi vay. Càng cho vay được nhiều thì lãi thu được càng lớn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy việc nâng cao các khoản tín dụng là mục tiêu hàng đầu, sống còn trong hoạt động kinh doanh của mình để vừa đảm bảo có thu nhập cao vừa an toàn, hiệu quả. 1.2.5 Tài trợ hoạt động ngoại thương ngày nay khi mà hoạt động thương mại quốc tế ngày một phát triển, xuất nhập khẩu giữa các nước đã diễn ra mạnh mẽ thì đòi hỏi việc thanh toán quốc tế cũng như những hộ trợ khác cho thanh toán ngày càng nhiều. Việc đảm bảo thanh toán cho các doanh nghiệp giữa các nước đòi hỏi một tổ chức đứng ra phải có đủ khả năng và uy tín như NHTM mới đảm trách được. Các NHTM giúp cho các doanh nghiệp có hoạt động đối ngoại thực hiện việc thanh toán được hiệu quả, an toàn và đặc biệt là giảm được chi phí cho họ. Ngoài ra NHTM còn có hỗ trợ về vốn, nghiệp vụ giúp cho các doanh nghiệp có thể thực hiện một cách thuận lợi và an toàn các hoạt động ngoại thương. Cụ thể ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ mở L/C, séc chuyển tiền, hối phiếu… 1.2.6 Hoạt động bảo lãnh. Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn mà đòi hỏi về vốn và uy tín vượt qua khả năng tài chính của mình, nhưng dự án đó là có hiệu quả. Vì vậy các doanh nghiệp này rất cần một tổ chức đứng ra bảo lãnh cho họ để họ ký kết hoạt động thực hiện dự án. Ngân hàng chính là người bảo lãnh tốt cho các doanh nghiệp bởi NHTM có tiềm lực về vốn và uy tín. Mặt khác, NHTM có thể tư vấn cung cấp tiền tệ, nghiệp vụ giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt dự án. Hiện nay, việc NHTM bảo lãnh cho các doanh nghiệp là khách hàng của mình ngày càng phổ biến, điều đó mang lại lợi ích cho cả hai bên: NHTM và doanh nghiệp. Ngoài ra NHTM còn có nhiều chức năng khác như: Dịch vụ uỷ thác, bảo đảm an toàn vật có giá… 1.3 Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại. 1.3.1 Nghiệp vụ nợ hoạt động của NHTM dựa chủ yếu trên nguồn vốn huy động còn nguồn vốn tự có của NHTM là rất nhỏ, nó chỉ là tấm đệm để hạn chế những rủi ro. Số vốn huy động tại các NHTM chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau như: lãi suất, tình hình kinh tế xã hội, cách thức gửi tiền và trả lãi, phong tục tập quán, địa điểm và thái độ phục vụ của ngân hàng.. Các hình thức huy động bao gồm: - Tiền gửi thanh toán: Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn, có hoặc không có lãi suất. Mục đích của người gửi tiền là để hưởng các dịch vụ của ngân hàng phục vụ cho quá trình thanh toán của mình. Loại tiền gửi này tuy có chi phí thấp nhưng chứa đựng rủi ro cao, do người gửi có thể rút bất kỳ lúc nào. Tỉ lệ tiền gửi thanh toán ở Việt Nam còn thấp rất nhiều so với tỷ lệ chung trên thế giới vì người dân nước ta vẫn giữ thói quen sử dụng tiền mặt trong lưu thông. - Tiền gửi tiết kiệm: Mục đích của loại tiền gửi này là để hưởng l•i suất. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không có kỳ hạn. Các kỳ hạn do sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng. Ngoài hai loại tiền gửi chủ yếu trên ngân hàng còn thực hiện một số hình thức tiền gửi khác và ngân hàng không chỉ huy động vốn bằng tiền gửi mà còn có nhiều hình thức huy động vốn khác như phát hành chứng khoán, vay trên thị trường tiền tệ, vay từ tổ chức tín dụng khác, vay từ NHTW… Tuy nhiên, các hình thức này không thường xuyên mà chỉ thực hiện trong những trường hợp nhất định, bởi chứa đựng trong đó ràng buộc và điều kiện. 1.3.2 Nghiệp vụ có. Đây là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Ngân hàng dùng vốn huy động được cùng với vốn tự có để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình nhằm tạo ra nguồn thu nhập. Nghiệp vụ có của ngân hàng thể hiện ở các hoạt động sau: - Hoạt động ngân quỹ: Mỗi ngân hàng đều phải giữ lại một khoản tiền tại két của Ngân hàng để phòng những trường hợp rút tiền của người gửi, tránh được những rủi ro về thanh toán. Nên có thể nói hoạt động này đảm bảo cho khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng. Khoản tiền bảo đảm khả năng thanh toán của ngân hàng có thể là tiền tại két, tiền gửi NHTW, chứng khoán, tiền mặt trong quá trình thu. Đó là những tài sản có tính thanh khoản cao. Những tài sản này không sinh lời hoặc sinh lời thấp. Vì vậy, ngân hàng phải điều chỉnh lượng dự trữ này sao cho hợp lý để đảm bảo khả năng sinh lời cao, vừa đảm bảo khả năng thanh toán tốt. - Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân hàng, nó thường đem lại cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao tới 60 – 70%. Mặt khác, đây cũng là hoạt động nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Có thể nói hoạt động tín dụng có mức độ rủi ro cao nhất, do đó để thực hiện có hiệu quả hoạt động này các ngân hàng phải có những biện pháp để hạn chế những rủi ro bằng cách quản lý chặt chẽ các khoản cho vay. - Hoạt động thuê mua: Đây là hoạt động còn khá mới mẽ ở Việt Nam. Đây là hình thức cung cấp tài chính cho khách hàng dưới hình thức thuê. Hoạt động này cũng là một hình thức cấp tín dụng, nhưng nó có điểm khác biệt là quyền sở hữu vẫn thuộc về bên cho thuê. Chỉ đến khi kết thúc hợp đồng. Người thuê có quyền mua lại tài sản có ở mức giá thoả thuận giữa hai bên, ấn định từ khi hợp đồng này. - Hoạt động đầu tư trực tiếp: Bên cạnh các hình thức đầu tư gián tiếp bằng cách cấp tín dụng ở trên, ngân hàng còn tham gia đầu tư trực tiếp vào một công trình…Hoạt động này một mặt tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, mặt khác giúp bổ trợ cho các hoạt động khác bởi đa dạng hoá giảm rủi ro. Cùng với việc nắm giữ chứng khoán, ngân hàng có thể đảm bảo cho khả năng thanh toán của tài sản có sinh lời. 1.3.3 Nghiệp vụ trung gian. Ngoài 2 nghiệp vụ trên, ngân hàng còn thực hiện cung cấp các dịch vụ khác cho khách hàng nhằm thu phí và khuyến khích khách hàng đến với ngân hàng. Ngày nay, hoạt động này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Các hoạt động trung gian bao gồm: - Dịch vụ thanh toán và cung cấp phương tiện thanh toán: Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán hộ cho khách hàng và phát hành các phương tiện nhằm phục vụ cho thanh toán như: UNC, UNT, Sec, L/C… - Dịch vụ môi giới: Ngân hàng tổ chức mua bán, lưu ký, bảo quản chứng khoán cho ngân hàng. Tại Việt Nam, các ngân hàng thành lập ra các công ty chứng khoán để thực hiện hoạt động này. - Dịch vụ ngân quỹ: Ngày nay, khi mà thị trường không dùng tiền mặt thì hoạt động này ngày càng phát triển rộng. Ngân hàng đứng ra thu hộ và phát tiền mặt cho khách hàng. - Dịch vụ chuyển tiền: Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật thì dịch vụ này ngày càng được nhiều người sử dụng. - Dịch vụ bảo lãnh: Bằng uy tín và khả năng tổ chức của mình, ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho các công ty phát hành chứng khoán, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng… - Dịch vụ tư vấn: Cung cấp thông tin và hỗ trợ về mặt chuyên môn cho khách hàng. - Dịch vụ bảo quản. 2. Lý luận chung về tín dụng 2.1. Khái niệm tín dụng Danh từ tín dụng dùng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Trong mỗi một hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau như sau: - Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc; - Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nào đó. Trong quan hệ giao dịch trên thể hiện các nội dung: Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái hay còn ngọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái giá trị hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị bất động sản. Người thụ trái hay là người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoã thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Thước đo phần lợi tức này là giá trị tài hoá hoặc tiền tệ và lãi suất mà hai bên thoả thuận. Người cho vay phải tuân thủ nguyên tắc : L•i suất cho vay phải chứa đựng các yếu tố như lạm phát, rủi ro và chi phí cơ hội. Người cho vay phải chú ý đến giá trị thời gian của tiền. Như vậy: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả phần tài sản đã mượn cộng thêm một phần lợi tức theo thời hạn đã thoả thuận. Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh -credittum- có nghĩa là sự tín nhiệm. Trong giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác tin tưởng và sẳn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn thời tgian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín nhiệm của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh. Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín dụng đã hình thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng lãi, quan hệ tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm chí còn tồn tại đến ngày nay. Hình thức tín dụng này được coi là phương pháp tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời ra đời. Quan hệ tín dụng phát triển hết sức đa dạng và phức tạp bắt đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản ra đời. Cho đến ngày nay các quan hệ tín dụng đã phát triển toàn diện. Trong thực tiễn thường có các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng cụ thể, ví dụ: Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng thể hiện dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái, trái phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc. Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau hay còn gọi là tín dụng thương mại thể hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá. Quan hệ tín dụng giữa các công ty và công chúng thể hiện dưới hình thức các công ty phát hành các trái phiếu, hoặc bán hàng trả góp. Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tài ch
Tài liệu liên quan