TÓM TẮT
Sau năm 1945, từ những nhóm chuyên hành nghề cướp giật, Bình Xuyên đã phát triển thành một đội
quân hàng ngàn binh sĩ với nhiều nguồn gốc và xu hướng chính trị khác nhau. Giai đoạn đầu sau khi
thành lập, Bình Xuyên tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ giữa năm 1948, Bình
Xuyên phân hóa mạnh mẽ, một bộ phận trung thành đi theo kháng chiến, bộ phận khác dưới quyền Lê
Văn Viễn đầu hàng Pháp. Sau năm 1954, Lê Văn Viễn thất bại trong cuộc xung đột với Ngô Đình
Diệm, một bộ phận tan rã, một bộ phận nhỏ được chuyển hóa thành lực lượng cách mạng tham gia vào
cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 231 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lực lượng vũ trang Bình Xuyên ở Nam Bộ (1945 – 1961), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 68 (02/2020) No. 68 (02/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
57
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG BÌNH XUYÊN Ở NAM BỘ (1945 – 1961)
Bình Xuyên armed forces in Southern Vietnam (1945 – 1961)
ThS. Phạm Văn Phương
Trường Đại học Sài Gòn
TÓM TẮT
Sau năm 1945, từ những nhóm chuyên hành nghề cướp giật, Bình Xuyên đã phát triển thành một đội
quân hàng ngàn binh sĩ với nhiều nguồn gốc và xu hướng chính trị khác nhau. Giai đoạn đầu sau khi
thành lập, Bình Xuyên tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ giữa năm 1948, Bình
Xuyên phân hóa mạnh mẽ, một bộ phận trung thành đi theo kháng chiến, bộ phận khác dưới quyền Lê
Văn Viễn đầu hàng Pháp. Sau năm 1954, Lê Văn Viễn thất bại trong cuộc xung đột với Ngô Đình
Diệm, một bộ phận tan rã, một bộ phận nhỏ được chuyển hóa thành lực lượng cách mạng tham gia vào
cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước.
Từ khóa: Lực lượng vũ trang Bình Xuyên, Lê Văn Viễn, Dương Văn Dương, Nam Bộ
ABSTRACT
After 1945, from groups frequently committing robbery, Bình Xuyên has grown into an army of
thousands of soldiers with various backgrounds and political trends. In the first phase after its
establishment, Bình Xuyên actively participated in the resistance war against the French. Since the
middle of 1948, Bình Xuyên was strongly divided with a loyal part following the Resistance and
another part under Lê Văn Viễn surrendering to France against the Resistance. After 1954, Lê Văn Viễn
failed in the conflict with Ngô Đình Diệm; consequently, Bình Xuyên disintegrated, and a small part
was converted into a revolutionary force to participate in the Resistance against America to reunify the
country.
Keywords: Bình Xuyên armed forces, Lê Văn Viễn, Dương Văn Dương, Southern Vietnam
1. Mở đầu
Lực lượng vũ trang Bình Xuyên là một
hiện tượng phức tạp, mang tính đặc thù ở
Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp và thời kỳ đầu kháng chiến chống
Mỹ. Bình Xuyên được gọi là lực lượng vũ
trang giáo phái, mặc dù thiếu nền tảng tôn
giáo như Cao Đài hoặc Hòa Hảo. Trong
giai đoạn xâm lược Việt Nam (1945 –
1954) thực dân Pháp coi Bình Xuyên là lực
lượng thuộc phụ lực quân (lực lượng quân
sự bổ túc), và hưởng quy chế của phụ lực
quân. Bình Xuyên thường được cho là có
nguồn gốc từ dân giang hồ, trộm cướp, hợp
tác với Pháp chống lại kháng chiến. Bài
viết của chúng tôi tập trung vào việc tìm
hiểu quá trình hình thành, hoạt động và
phân hóa của lực lượng vũ trang Bình
Xuyên qua các giai đoạn lịch sử, với những
chuyển biến và thái độ chính trị khác nhau.
Email: phuongsgu1982@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 68 (02/2020)
58
2. Nội dung
2.1. Thời kỳ hình thành và tham gia
kháng chiến chống Pháp
Khoảng những năm 1930, phía Nam
Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn, một số
nông dân, công nhân trốn thuế thân, phạm
tội truy nã, những người có tính cách
ngang tàng kéo bè, kết cánh hình thành các
phe nhóm chuyên sống bằng nghề bảo kê
bài bạc, nhà thổ, cướp giật. Tên gọi của các
nhóm này lấy theo tên của những người
cầm đầu như: Trần Văn Hoàng (Ba
Hoàng), Trần Văn Đối (Sáu Đối), Trần
Văn Thơ (Sáu Thơ), Đoàn Văn Ngọc (Ba
Ngọc), Quách Văn Phải (Chín Phải), Mai
Văn Vĩnh (Hai Vĩnh).v.v. Ngoài ra, có một
số nhân vật: Nguyễn Văn Mạnh (thầy dạy
võ), Dương Văn Dương (làm nghề chăn
vịt) nhờ giỏi võ nghệ và có uy tín nên
được giới giang hồ trong khu vực nể trọng.
Từ rất sớm, những người cộng sản đã
có ý thức tranh thủ lực lượng giang hồ để
chống Pháp. Trước ngày Nam Kỳ khởi
nghĩa (11/1940), Nguyễn Văn Trân (đảng
viên cộng sản) đến khu vực Nhà Bè, Cần
Giuộc gặp gỡ, thuyết phục các nhóm giang
hồ dừng hoạt động cướp giật, bảo kê để
tham gia đánh Pháp giành độc lập. Nhóm
Nguyễn Văn Mạnh, Mai Văn Vĩnh đồng ý
tham gia, do khởi nghĩa không diễn ra ở
Sài Gòn, nên lực lượng của Nhà Bè nói
chung không bị lộ. Trong Cách mạng tháng
Tám, lực lượng giang hồ tham gia tích cực
vào việc giành chính quyền ở quận lỵ Nhà
Bè và các làng trong quận.
Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược,
các nhóm giang hồ khu vực Nhà Bè, Cần
Giuộc, Thủ Thiêm đã tích cực thu thập vũ
khí, luyện tập quân sự, phát triển quân số.
Ngoài lực lượng giang hồ, còn có bộ phận
vũ trang của các tổ chức Đảng, của Tổng
Công đoàn Nam Bộ tham gia tích cực
vào các hoạt động chống Pháp. Tháng
10/1945, hàng chục đơn vị vũ trang với
nhiều nguồn gốc khác nhau đang hoạt động
ở quận Nhà Bè và vùng lân cận đã được tổ
chức lại thành một lực lượng thống nhất,
với quân số hơn 2.000 người. Toàn bộ lực
lượng này do Dương Văn Dương chỉ huy
trưởng - Tổng hành dinh đặt tại xóm Bến
Đò, cầu Rạch Đỉa, làng Tân Quy (Nhà Bè)
(Hồ Sơn Đài, 2005, tr.28). Lực lượng vũ
trang của Dương Văn Dương đánh giặc tại
Mặt trận số 4(1), ngăn quân Pháp đánh ra
các vùng ngoại vi phía Nam thành phố, tạo
điều kiện cho chính quyền cách mạng phía
sau có thời gian chuẩn bị kháng chiến lâu
dài. Từ cuối tháng 10/1945, các mặt trận
xung quanh Sài Gòn bị vỡ, các lực lượng
vũ trang chiến đấu trên địa bàn Nhà Bè,
Cần Giuộc rút về rừng Sác.
Đầu tháng 11/1945, tại ấp Phước Cơ,
xã Đa Phước, quận Cần Giuộc (Chợ Lớn),
Hội nghị quân sự được tổ chức dưới sự chủ
trì của Nguyễn Văn Hoành (Bí thư kiêm
Chủ tịch tỉnh Chợ Lớn). Hội nghị đã bầu
Dương Văn Dương làm chỉ huy trưởng
toàn bộ lực lượng vũ trang Nhà Bè và Cần
Giuộc, Nguyễn Văn Mạnh làm tham mưu
trưởng. Về tên gọi, lúc đầu các nhóm vũ
trang chiến đấu trên địa bàn Nhà Bè nên
gọi chung là Lực lượng vũ trang Nhà Bè,
về sau những người tham dự hội nghị đã
quyết định lấy tên Bình Xuyên(2) – Bộ đội
Bình Xuyên làm danh xưng. Bộ đội Bình
Xuyên được tổ chức thành 2 chi đội lấy
phiên hiệu là Chi đội 2 và Chi đội 3 thuộc
Khu 7, một bộ chỉ huy chung gọi là Bộ Chỉ
huy Liên chi đội 2 và 3 Bình Xuyên được
bầu ra, do Dương Văn Dương làm chỉ huy
trưởng (Hồ Sơn Đài, 2005, tr.55).
Như vậy, tên gọi Bộ đội Bình Xuyên
PHẠM VĂN PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
59
ra đời vào khoảng cuối năm 1945, thành
phần hợp thành “Bộ đội Bình Xuyên”
không phải chỉ có nguồn gốc từ dân giang
hồ mà đến từ nhiều nguồn khác nhau: có
bộ phận vũ trang của các tổ chức ở địa
phương xây dựng, có bộ phận đến từ Tổng
công đoàn Nam Bộ chi viện, có bộ phận là
nam nữ thanh niên yêu nước tham gia
kháng chiến. Thời điểm này, trên địa bàn
Quân khu 7 thành lập thêm một số chi đội
về sau cũng được gọi là bộ đội Bình Xuyên
như Chi đội 4 (bộ đội Huỳnh Văn Trí), Chi
đội 7 (bộ đội Nguyễn Văn Mạnh, Mai Văn
Vĩnh), chi đội 9 (Bộ đội Lê Văn Viễn –
Bảy Viễn), chi đội 21 (Bộ đội Nguyễn Văn
Hoạch), chi đội 25 (bộ đội Tư Tỵ).
Tháng 2/1946, theo lệnh của Khu bộ
trưởng Khu 7 - Nguyễn Bình, một bộ phận
của Liên chi đội 2 và 3 gồm 5 đại đội
(khoảng 500 người) do Dương Văn Dương
chỉ huy vượt sông Soài Rạp, hành quân về
Bến Tre chi viện cho mặt trận An Hóa. Tại
chiến trường Bến Tre, bộ đội Bình Xuyên
tham gia nhiều trận đánh chống quân Pháp.
Trong một trận càn, Dương Văn Dương
trúng đạn hy sinh(3), Bình Xuyên mất đi
một thủ lĩnh uy tín, có khả năng tập hợp
được nhiều nhóm giang hồ cá biệt. Dương
Văn Hà – em trai của Dương Văn Dương
được bầu làm chỉ huy trưởng Liên chi đội 2
và 3.
2.2. Âm mưu của thực dân Pháp và
sự kiện “thanh trừng” trong lực lượng
Bình Xuyên
Thất bại trong chiến lược “đánh nhanh
thắng nhanh” buộc thực dân Pháp phải
chuyển sang chiến lược đánh lâu dài “dùng
người Việt đánh người Việt”. Thực hiện
chiến lược mới, một mặt Pháp lập ra Chính
phủ Nam Kỳ tự trị, mặt khác tìm cách lôi
kéo các lực lượng tôn giáo, giáo phái
chống lại kháng chiến. Lê Văn Viễn (Bảy
Viễn), một tướng cướp trở thành con bài
của tình báo Pháp để thâm nhập, khống chế
Bình Xuyên. Tháng 2/1946, Lê Văn Viễn
đưa Chi đội 9) từ Vườn Thơm – Bà Vụ
(Chợ Lớn) xâm nhập vào rừng Sác rồi kéo
đến Tổng hành dinh Bình Xuyên ở xã
Phước An (Long Thành). Lúc này, Dương
Văn Dương đã hi sinh, Lê Văn Viễn âm
mưu dùng vốn liếng giang hồ để tìm cách
nắm lấy lực lượng vũ trang Bình Xuyên.
Giữa tháng 6/1946, lấy lý do cần thống
nhất lực lượng để có sức mạnh đánh Pháp,
nhân danh chỉ huy Chi đội 9, Lê Văn Viễn
mời chỉ huy trưởng và phó các Chi đội 2,
3, 4, 7, 9, 21, 25 đến Ba Giồng – xã An
Thới Đông (Rừng Sác – Cần Giờ) để bàn
về lập “Liên quân các chi đội”, “Liên khu
Bình Xuyên”. Những người tham dự Hội
nghị đã thống nhất một số nội dung:
+ Tất cả các chi đội 2, 3, 7, 4, 9, 21, 25
đều mang danh xưng Bình Xuyên.
+ Lực lượng Bình Xuyên mở rộng
thống nhất thành một khối.
+ Bầu Lê Văn Viễn làm tổng chỉ huy
các lực lượng Bình Xuyên.
+ Lập “Liên khu Bình Xuyên” trong
trong phạm vi Rừng Sác (Câu lạc bộ truyền
thống Trung đoàn 300, 2002, tr.15).
Như vậy, từ giữa năm 1946, Bộ đội
Bình Xuyên từ hai chi đội: Chi đội 2, Chi
đội 3 đã được mở rộng thành bảy chi đội.
Với sự mở rộng này, Lê Văn Viễn trở thành
người đứng đầu Bình Xuyên. Trước tình
hình mới, Bộ chỉ huy Quân khu 7 đã quyết
định phong Lê Văn Viễn làm Khu bộ phó;
Chấp nhận lập Liên khu Bình Xuyên, và chỉ
định Dương Văn Hà làm chỉ huy trưởng,
Nguyễn Văn Mạnh làm tham mưu trưởng.
Mục đích việc lập Ban chỉ huy Liên khu
Bình Xuyên là để phân quyền lực, không để
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 68 (02/2020)
60
Lê Văn Viễn nắm Bình Xuyên. Tuy nhiên,
Ban Chỉ huy Liên khu Bình Xuyên chỉ có
danh nghĩa mà không hoạt động. Do đó, lấy
vị thế của Khu bộ phó Khu 7, Lê Văn Viễn
dần dần từng bước chi phối các chi đội: 9,
21, 25 (Câu lạc bộ truyền thống Trung đoàn
300, 2002, tr.15).
Lê Văn Viễn lập ra 20 ban do thám,
thành phần chủ yếu là dân lưu manh, lính
biệt kích, hạ sĩ quan. Các ban do thám này
có nhiều hoạt động gây tổn hại cho kháng
chiến: “Bọn này thủ tiêu người theo lệnh
của Tài, Sang, Bảy Viễn. Danh từ “mò
tôm”, “gãy chèo” cũng từ bọn này mà ra.
Chúng cờ bạc, rượu chè công khai, uy hiếp
dân, bắt người có của nộp tiền, tổ chức tiệc
tùng cho chúng ăn nhậu, bắt nhà có con
gái đẹp gả cho chúng...” (Câu lạc bộ
truyền thống Trung đoàn 300, 2002, tr.17).
Ngoài các ban do thám, Lê Văn Viễn đặt
40 trạm thu thuế trong rừng Sác vừa để thu
thuế vừa theo dõi mọi di chuyển, truyền đi
tin tức về Tổng hành dinh.
Tháng 3/1947, Lê Văn Viễn lập ra Bộ
Tham mưu Bình Xuyên nhằm khống chế
các chi đội 2, 3, 4, 7 (còn chưa chịu sự chi
phối). Tuy bề ngoài, Lê Văn Viễn là Khu
bộ phó Khu 7, nhưng thái độ bên trong gần
như đã chuyển biến hoàn toàn. Những cán
bộ bị tình nghi là đảng viên cộng sản bị
khủng bố, thủ tiêu; bắt giam một số chính
trị viên cấp đại đội và trung đội, răn đe
những người có ý kiến phải đối. Lê Văn
Viễn cho người tiếp xúc với cơ quan tình
báo Pháp để thỏa hiệp về một vùng lãnh
thổ “tự trị” ở Sài Gòn (A.W.McCoy, 1972,
tr.115).
Tháng 11/1947, Quân khu 7 thành lập
Trung đoàn 300 do Đặng Văn Thìn (Mười
Thìn) làm Trung đoàn trưởng. Sau khi
thành lập, Trung đoàn 300 sáp nhập vào
Liên chi đội 2 và 3, quyết định này đưa
Trung đoàn 300 trở thành “đơn vị thứ tám”
của bộ đội Bình Xuyên (Câu lạc bộ truyền
thống Trung đoàn 300, 2002, tr.24). Những
hành động của Lê Văn Viễn đều được
Đảng ủy Trung đoàn 300 báo cáo về Khu 7
và đề nghị Khu ủy có chủ trương đối phó.
Tháng 4/1948, Lê Văn Viễn được Ủy ban
Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ
(UBKCHC) phong chức Khu bộ trưởng
Khu 7. Cuối tháng 4/1948, Khu 7 cử
Huỳnh Văn Nghệ (Khu bộ phó Khu 7)
xuống Rừng Sác thuyết phục Lê Văn Viễn
đi Đồng Tháp Mười nhận chức, mặt khác
bí mật chỉ thị Ban Chỉ huy Trung đoàn 300
chuẩn bị một kế hoạch thanh trừng. Nhiệm
vụ của cuộc thanh trừng là bắt giữ các tình
báo viên của cơ quan tình báo Pháp, những
phần tử hô hào chống kháng chiến, chống
cộng, những kẻ có tội ác với nhân dân; giải
tán tổ chức bất hợp pháp của Lê Văn Viễn
ở các chi đội 9, 21, 25 (Câu lạc bộ truyền
thống Trung đoàn 300, 2002, tr.34). Các
chi đội 2, 3, 4, 7 Bình Xuyên trung thành
với đường lối kháng chiến không phải là
đối tượng của cuộc thanh trừng này.
Ban chỉ đạo thanh trừng do Quân khu
chỉ định gồm: Nguyễn Đức Huy (Phó bí
thư Khu ủy, kiêm bí thư Đảng bộ Liên chi
đội 2 và 3); các ủy viên gồm: Dương Văn
Hà (Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Liên chi
đội 2 và 3); Nguyễn Việt Hồng (Phó bí thư
Đảng ủy, Chính trị viên Trung đoàn 300);
Trương Văn Bang (Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn 922); Võ Văn Thạnh (Tiểu đoàn
trưởng thuộc Trung đoàn 300).
Tối 27/5, một bộ phận của Trung đoàn
300 bắt giữ Nguyễn Văn Tỵ (Tư Tỵ - chỉ
huy Chi đội 25) người đang thay Lê Văn
Viễn ở Tổng hành dinh. Sáng ngày 28/5,
tất cả các cánh quân theo kế hoạch thực
PHẠM VĂN PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
61
hiện nhiệm vụ, đến chiều cùng ngày, cuộc
thanh trừng về cơ bản kết thúc, các mục
tiêu đều hoàn thành nhiệm vụ. Hầu hết tay
chân thân tín của Lê Văn Viễn, nhân viên
tình báo Pháp, 10 gián điệp, một số đối
tượng trong Chi đội 9, 21, 25; 70% lực
lượng trong các ban trừ gian, các trạm thu
thuế bị bắt (Hồ Sơn Đài, 2005, tr.162).
Sự kiện thanh trừng đánh dấu bước
chuyển biến quan trọng trong Lực lượng vũ
trang Bình Xuyên. Do yêu cầu mới của
cuộc kháng chiến, toàn thể cán bộ chiến sĩ
Bình Xuyên dần dần được biên chế, sáp
nhập, bổ sung với các đơn vị khác để thành
lập các trung đoàn chính quy như: 300,
301, 302, 304, 306, 307, 308, 310, 311,
312.v.v. Một bộ phận khác được bổ sung
vào lực lượng vũ trang của các tỉnh, thành
phố, các huyện trên địa bàn Quân khu 7.
Từ tháng 9-1949, lực lượng vũ trang Bình
Xuyên kháng chiến không còn dấu tích,
phiên hiệu riêng, họ đã hòa mình vào cuộc
kháng chiến của dân tộc.
2.3. Lực lượng vũ trang Bình Xuyên
ly khai
Thời điểm Lê Văn Viễn đang ở chiến
khu Đồng Tháp Mười, cuộc thanh trừng
trong nội bộ Bình Xuyên diễn ra.
UBKCHC Nam Bộ thông báo cho Lê Văn
Viễn lệnh đình chỉ không đến kịp, và đề
nghị giao nộp Lại Hữu Tài, Lại Văn Sang,
Viễn vẫn sẽ nhậm chức Khu bộ trưởng
Khu 7. Trước đề nghị của UBKCHC Nam
Bộ, Lê Văn Viễn từ chối, cho Lại Hữu Tài
về Sài Gòn liên lạc với thực dân Pháp
chuẩn bị ra đầu hàng. Trước thái độ của Lê
Văn Viễn, UBKCHC Nam Bộ không có
hành động ngăn chặn vì: “để cho Bảy Viễn
tự chọn con đường của mình” (Câu lạc bộ
truyền thống Trung đoàn 300, 2002, tr.50).
Với đoàn hộ tống khoảng 200 binh
lính, Lê Văn Viễn hành quân về hướng Sài
Gòn. Trên đường đi, đại bộ phận chiến sĩ
trong đoàn tìm cách tách ra quay lại với
kháng chiến, khi đến xã An Phú (Cần
Giuộc) Lê Văn Viễn chỉ còn lại gần 40
người, phần lớn là chỉ huy (Hồ Sơn Đài,
2005, tr.168). A.M. Savani (trưởng phòng
tình báo của Pháp ở Nam Bộ) trực tiếp
xuống Cần Giuộc thuyết phục Lê Văn Viễn
đầu hàng. Ngày 13-8-1948, lễ “ra mắt” của
“Bình Xuyên ly khai” được tổ chức tại chợ
Phạm Thế Hiển, có sự tham gia của các
quan chức thực dân Pháp và chính phủ bù
nhìn Bảo Đại. Tại buỗi lễ, Lê Văn Viễn
hứa trung thành với “chính phủ Quốc gia”
và “chiến đấu chống Việt Minh và cộng
sản độc tài” (A.W.McCoy, 1972, tr.116).
Tướng De Latour (chỉ huy quân đội Pháp ở
Nam Bộ) thay mặt nhà cầm quyền Pháp –
Việt tiếp nhận Bình Xuyên ly khai, gắn cho
Lê Văn Viễn quân hàm đại tá.
Như vậy, từ tháng 8/1948 “Bình
Xuyên ly khai” là một lực lượng vũ trang
hoàn toàn mới, không liên quan gì đến Bộ
đội Bình Xuyên yêu nước, kháng chiến
trước đó. “Bình Xuyên ly khai” thực chất
là một tổ chức vũ trang ô hợp, được lập ra
bởi Lê Văn Viễn và cơ quan tình báo Pháp
để chống lại kháng chiến.
Với nguồn cung cấp tài chính, vũ khí
từ thực dân Pháp, Lê Văn Viễn tiếp tục
tăng cường lực lượng, xây dựng sở chỉ huy,
doanh trại. Cuối năm 1948, lực lượng Bình
Xuyên ly khai đã có một trung đoàn với 6
tiểu đoàn quân sự; 3 tiểu đoàn cảnh sát.
Tổng hành dinh của Lê Văn Viễn đặt ở khu
vực phía Nam cầu chữ Y (quận 8 hiện
nay). Bình Xuyên ly khai được giao đảm
trách khu vực phía Nam và Đông Nam Sài
Gòn, (khu vực Nhà Bè, Quận 7, Quận 8,
Bình Chánh, Cần Được, Cần Giuộc, Cần
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 68 (02/2020)
62
Giờ hiện nay). Như vậy, địa bàn kiểm soát
của Bình Xuyên ly khai bao trọn cả vùng
Sài Gòn – Chợ Lớn và cả khu vực rừng Sác
(căn cứ cũ của Bình Xuyên). Để chống lại
kháng chiến, Pháp giao luôn cho Bình
Xuyên kiểm soát các tuyến thủy lộ từ biển
vào thương cảng Sài Gòn (Lê Văn Dương,
1972, tr.410).
Ngoài khoản trợ cấp thường xuyên
hàng năm đến từ thực dân Pháp, Bình
Xuyên tiến hành nhiều hoạt động kinh tế cả
công khai lẫn bí mật như: khai thác gỗ, thu
thuế, thiết lập các đoàn vận tải, thiết lập
các công ty xe đò từ Sài Gòn đi các tỉnh
miền Tây và Vũng Tàu, bắt cóc tống tiền,
bảo kê hoạt động mại dâm, mở nhà chứa ở
xóm Bình Khang(4), giành quyền điều hành
sòng bài Kim Chung (Cloche d'Or), sòng
bài Đại Thế Giới (Grand Monde)(5). Từ
năm 1950, Bình Xuyên tham gia vào
đường dây điều chế và phân phối thuốc
phiện của cơ quan tình báo Pháp. Năm
1954, Bình Xuyên kiểm soát hầu như tất cả
các nhà máy điều chế thuốc phiện và việc
phân phối trên toàn Nam Bộ (A.W.McCoy,
1972, tr.109).
Tháng 4/1954, Bảo Đại giao chức vụ
Giám đốc cảnh sát Quốc gia cho Lại Văn
Sang, một tay chân thân tín của Lê Văn
Viễn với giá được cho là khoảng 1 triệu
USD (Gabriel Kolko, 1991, tr.110). Lại
Văn Sang đưa người của Bình Xuyên làm
Giám đốc cảnh sát Sài Gòn – Chợ Lớn,
thải hồi các nhân viên cũ và lập một lực
lượng cảnh sát mới gọi là “Công an xung
phong”. Nắm được lực lượng cảnh sát,
người của Bình Xuyên được tự do đi lại ở
Sài Gòn – Chợ Lớn mà gần như không gặp
phải bất kỳ sự kiểm soát nào. Từ một nhóm
vũ trang tập hợp toàn những thành phần
côn đồ, bất hảo, phạm pháp, Bình Xuyên
“trở thành Mafia giữ an ninh cho vùng Sài
Gòn – Chợ Lớn” (Bảo Đại, 1990, tr.417).
Sau Hiệp định Genève (7/1954), Bình
Xuyên kiểm soát tiểu khu chiến Bình
Xuyên (khu vực gồm một phần Quận 8,
Quận 7 và Nhà Bè ngày nay), Kervella
(Rừng Sác), Phú Mỹ (Bà Rịa). Tiểu khu
chiến Bình Xuyên có 23 đồn lớn, 20 bót
nhỏ; Tiểu khu chiến Kervella có 3 đồn lớn;
Tiểu khu chiến Phú Mỹ gồm có 3 đồn lớn
(Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Hồ sơ số
4343, tờ 20). Tổng cộng, Bình Xuyên có
gần 3.000 binh lính, sĩ quan chia thành 5
tiểu đoàn, chỉ huy chung là Lê Văn Viễn
(thiếu tướng), Tổng Hành dinh đóng ở khu
vực gần cầu chữ Y.
Ngoài lực lượng quân sự, Lê Văn Viễn
còn có công an xung phong với quân số
1.500 binh sĩ, biên chế thành 2 tiểu đoàn,
các tiểu đoàn chia thành các đại đội, trung
đội đóng chốt rải rác ở 21 đồn khắp trong
khu vực nội thành Sài Gòn – Chợ Lớn như:
bót Théophile Đa Kao, sòng bài Kim
Chung, sòng bài Đại Thế Giới, trường đua
Phú Thọ, Tân Thuận, Hàng Xanh, trường
Pétrus Ký, Phú Thọ Hòa, Phú Lâm.v.v.
(Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Hồ sơ số
14684, tờ 68). Ngoài ra, 350 công an xung
phong bố trí ở Đà Lạt, 10.000 đảng viên
Mặt trận Bình dân làm cơ sở nòng cốt, và
sự hứa hẹn ủng hộ từ Pháp.
Trong các nhóm giáo phái, Bình
Xuyên là lực lượng đe dọa trực tiếp đến
con đường nắm quyền lực của Ngô Đình
Diệm. Các báo cáo gửi cho Ngô Đình
Diệm cũng tỏ ra lo ngại về số lượng quá
nhiều đồn bót trong Tiểu khu chiến Bình
Xuyên, khi cho rằng: “đây là một lực
lượng kiên cố để bảo vệ Tổng hành dinh
Bộ Tư lệnh Quân đội Bình Xuyên hơn là
bảo vệ dân chúng và lãnh thổ” (Trung tâm
PHẠM VĂN PHƯƠNG TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
63
Lưu trữ Quốc gia II, Hồ sơ số 4343, tờ 20).
Lê Văn Viễn không muốn đánh mất
những đặc quyền về kinh tế, quyền quản
lý địa bàn mà trước đây thực dân Pháp đã
ưu ái. Vì vậy, Viễn muốn Ngô Đình Diệm
cho Bình Xuyên tiếp tục duy trì các cơ sở
kinh tài như: sòng bài Kim Chung, Đại
Thế giới, nhà th