Lược khảo lịch sử đô thị

Thế giới cổ đại ra đời vào lúc chế độ công xã thị tộc tan rã và xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành. Nhà nước chiếm hữu nô lệ không ngừng củng cố và tập trung quyền lực vào tay tầng lớp thống trị là chủ nô với sự hỗ trợ đắc lực của quân đội và tôn giáo. Quá trình hình thành và phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ trên thế giới diễn ra khác nhau tùy theo điều kiện cụ thể của từng khu vực: khoảng 3500 năm Tr.CN ở khu vực Bắc Phi với Ai Cập cổ đại, sau đó là khu vực Lưỡng Hà ( Me1sopotamie), Tây Á, châu Á, châu Mỹ và kết thúc ở La mã (Roma) cổ đại vào thế kỷ thứ V.

pdf128 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1689 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lược khảo lịch sử đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 1 BÀI GIẢNG MÔN HỌC: LƢỢC KHẢO LỊCH SỬ ĐÔ THỊ Số tiết: 30 Hệ: TCCN Ngành Quản lý Đô thị Biên soạn: Ths-kts Nguyễn Dương Tử Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 2 CHƢƠNG 1: ĐÔ THỊ THỜI KỲ CỔ ĐẠI 1.1. Sơ lƣợc nguồn gốc đô thị Thế giới cổ đại ra đời vào lúc chế độ công xã thị tộc tan rã và xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành. Nhà nước chiếm hữu nô lệ không ngừng củng cố và tập trung quyền lực vào tay tầng lớp thống trị là chủ nô với sự hỗ trợ đắc lực của quân đội và tôn giáo. Quá trình hình thành và phát triển chế độ chiếm hữu nô lệ trên thế giới diễn ra khác nhau tùy theo điều kiện cụ thể của từng khu vực: khoảng 3500 năm Tr.CN ở khu vực Bắc Phi với Ai Cập cổ đại, sau đó là khu vực Lưỡng Hà ( Me1sopotamie), Tây Á, châu Á, châu Mỹ và kết thúc ở La mã (Roma) cổ đại vào thế kỷ thứ V. Hầu hết các quốc gia cổ đại đều hình thành và phát triển tại những lưu vực các dòng sông lớn, nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đó là lưu vực sông Nil ở Đông Bắc châu Phi với nền văn minh Ai Cập. Ở khu vực Tây Á, giữa 2 dòng sông Tigre và Euphrat có nền văn minh cổ đại Babylone, Assyrie, Phenicie . . . Ở lưu vực sông Hằng có nền văn minh Nam Á cổ đại với Ấn Độ là đại diện. Lưu vực Hoàng Hà, sông Dương Tử ở Đông Á là nơi xuất hiện nền văn minh Trung Quốc cổ đại. Cùng với sự xuất hiện tổ chức xã hội và Nhà nước chiếm hữu nô lệ, bên cạnh hình thức làng nông nghiệp, hình thức cư trú dạng đô thị hình thành. Khác với làng nông nghiệp, đô thị cổ đại nhanh chóng trở thành trung tâm chính chi phối mọi hoạt đông xã hội và là địa bàn phát triển nền văn minh của nhân loại. Cấu trúc đô thị phản ánh rõ nét sự phân chia giai cấp trong xã hội thông qua việc phân khu chức năng tương ứng. Một bên là khu vực dành cho tầng lớp chủ nô, bên kia là khu vực của người nô lệ. Sự khác nhau trong cấu trúc của các đô thị thường thể hiện thông qua kiến trúc tôn giáo. Do quan niệm về tín ngưỡng khác nhau ở các khu vực và quốc gia cổ đại mà vị trí và mối quan hệ giữa khu vực Xây dựng các công trình tôn giáo với khu vực dân dụng của đô thị có những điểm khác nhau. 1.2. Đô thị Ai Cập Cổ đại (3000- Thế kỷ III S.CN) Nằm tại Đông Bắc Phi, giữa 2 biển Đại Trung Hải và Hồng Hải, là đầu mối giao thông quan trọng giữa 3 châu lục Á, Âu, Phi, giữa 2 rặng núi và sa mạc Lybia. - Những đô thị Ai Cập cổ đại đã ra đời từ rất sớm, khoảng 3000 TCN. Những đô thị Ai Cập cổ đại đều quy tụ dọc theo hai bên bờ sông Nile như một yếu Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 3 tố quan trọng của nền kinh tế nông nghiệp. Thần quyền và Vương quyền cũng tác động mạnh đến sự hình thành bộ mặt đô thị, hình thành nên những trung tâm tôn giáo với những đền thờ hay lăng mộ lớn. - Ngoài những quần thể kim tự tháp và đền đài với quy mô lớn được xây dựng bằng đá còn tồn tại được đến nay, các kết quả của hoạt động xây dựng đô thị phần lớn đã bị sa mạc và thời gian làm mất đi. Những hình thức của đô thị lúc bấy giờ chỉ có thể hình dung được một phần qua dấu vết còn lại của một số đô thị được xây dựng để tập trung nô lệ phục vụ cho việc xây dựng kim tự tháp. Đặc điểm nổi bật trong cách tổ chức và xây đô thị Ai Cập cổ đại thể hiện sự phân khu chức năng đô thị 1 cách tách biệt.: khu của người sống và các khu dành cho người chết và thần linh. - Thành phố cho người chết: lăng mộ của các vương triều Ai Cập cổ đại, kim tự tháp. - Khu vực đền thờ thần Ai Cập cổ đại: đài thờ thần Mặt trời Hurus ở Abousir (2500 Tr.CN). - Khu vực cư trú của dân đô thị: nhà nô lệ xây bằng đất nung, nhỏ, đơn giản, bó cục tự do, mật độ xây dựng cao. Lâu đài dinh thự của Pharaon, nhà ở quý tộc , chủ nô quy mô lớn, vật liệu xây dựng bằng đá và có bố cục chặt chẽ. 1.2.1 Thời kì Cổ Vương quốc (3500- 2000 tr.CN): Pharaon tập trung trong tay mọi quyền lực. người Ai Cập còn đặc biệt chú trọng xây dựng những công trình thủy lợi có quy mô lớn để phát triển nông nghiệp, đối phó úng lụt. Các đô thị tiêu biểu: thành phố Memphis, thành phố Abudos 1.2.2 Thời kì Trung Vương quốc (2000- 1590 tr.CN): Triều đại Pharaon thứ XII- XVI. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Ai Cập cổ đại. Các đô thị tiêu biểu: Téba, Cumae, Semme, Kahun 1.2.3 Thời kì Tân Vương quốc (1590- 332 tr.CN): Triều đại Pharaon thứ XVIII- XXX. Ngoài Kim tự tháp, có nhiều tổng thể kiến trúc đền thờ quy mô lớn. Các đô thị tiêu biểu: thủ đô Thèbes . Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 4 Thành Kahun, được xây dựng vào giữa thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên trong thời kỳ trị vì của Xê-nu-xe II, một hoàng đế của vương triều thứ XII, là 1 thành phố có mặt bằng hình chữ nhật. Tường gạch xây bao quanh 380m x 260m, tổng diện tích khoảng 10ha. Trong thành chia rõ thành 2 phần bởi 1 bức tường gạch, 1 phần ở phía Tây có kích thước 260 x 105m dành cho dân nô lệ, có 250 nếp nhà nhỏ xây dựng bằng đất sét nện, có 1 con đường chạy từ Nam lên Bắc, hai đầu là 2 cửa thành cho nô lệ ra vào. Nô lệ không có quyền có kinh tế riêng, không có quyền chăn nuôi gia súc. Khu đất phía Đông lớn hơn chia ra 2 phần Bắc và Nam. Khu đất phía Bắc dành cho tầng lớp quý tộc, có điều kiện ăn ở rộng rãi, chỉ có khoảng 10 ngôi nhà có sân trong lớn. kiểu nhà lớn nhất có 70 phòng lớn nhỏ, có sân trong kích thước tới 60 ô 45m. có cả nhà 2 tầng, có cầu thang đi lên tầng mái. Tường chu vi bao quanh nhà không trổ cửa sổ, phía sân trong có hành lang cột, vật liệu xây dựng là đá liên kết bằng vữa. Phía cựa Tây của khu vực này có 1 tòa kiến trúc lớn, được cho là Hoàng cung. Phần phía Nam của khu vực Đông Kahun là khu vực dân trung lưu. Nhà ở Kahun có hình thức phù hợp với điều kiện nhiệt đới, có thể dùng mái bằng để sinh hoạt chung và để ngủ, có thể sân trong làm nghề thủ công, các phòng mát mẻ do được tổ chức thông gió. Từ hình thức và tổ chức các khu dân cư trong thành phố, Kahun mang những đặc điểm sau: - Mâu thuẫn giai cấp trong bản thân cuộc sống đô thị này rất sâu sắc, việc những người nô lệ sống theo hình thức kiểu giam lỏng như vậy là để ngăn chặn sự nổi dậy của họ. - Kahun có mặt bằng hình chữ nhật hướng về phương Nam, song song với đường đi của mặt trời. đây là tập tục của người Ai Cập cổ đại chú trọng hướng Nam, nơi bắt nguồn của sông Nile, thuật xem sao, tục quan sát mặt trời. Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 5 Hình 1: Đô thị Kahun Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 6 Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 7 Hình 2: Tượng nhân sư và kim tự tháp Gizeh Vì chưa nhận thức được giới tự nhiên, tin rằng quy luật của cuộc sống là do thần linh chi phối, con người chỉ sống vĩnh cửu sau khi chết, nên cuộc sống đô thị và hoạt đông xây dựng của người Ai Cập cổ xưa có những đặc điểm sau: - Đời sống công cộng đô thị gắn liền với các cuộc rước lễ tôn giáo, lễ vua, lễ hội của các tầng lớp dân chúng. - Những đại lộ chính của thủ đô, các đền thờ tôn giáo, lăng mộ, kim tự tháp có kích thước lớn được xây dựng rất nhiều. Nét đặc sắc của nghệ thuật quy hoạch đô thị của Ai Cập: hình thành được những quần thể kiến trúc lớn, với sự thống nhất trong phong cách xây dựng, chia rõ đối tượng chủ yếu và thứ yếu. Những kim tự tháp ở Gizeh, xây dựng trong những thế kỷ khác nhau, lặp lại một quan niệm nhất định về hình thức và thế khối nhưng vẫn có sức truyền cảm rất lớn đối với cả quần thể cũng như mỗi đơn thể. Dấu tích đô thị Ai cập cổ đại còn lại là 1 số kim tự tháp. Chúng là biểu tượng văn hóa Ai Cập cổ đại rực rỡ ở lưu vực sông Nil. 1.3. Đô thị Tây Á –Lƣỡng Hà cổ đại (3000- 300 Tr.CN). Nằm giữa 2 sông Tigris và Euphrates. Đất đai phì nhiêu, nhiều kênh rạch, nông nghiệp và chăn nuôi phát triển đã tạo điều kiện nảy nở 1 nền văn minh rực rỡ, thuộc loại sớm nhất trên thế giới. Vùng đất trên còn gọi là Mesopotamia, nghĩa là vùng đất nằm giũa 2 con sông “Lưỡng Hà”, ngày nay thuộc địa phận nước Iraq. - Những đô thị vùng Luỡng Hà và Tây Á là những bằng chứng sống động Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 8 đánh dấu giai đoạn đầu tiên của nền văn minh loài người. Tuy vậy, đây cũng là khu vực thường xuyên bị chiến tranh tàn phá. Thêm vào đó, với vật liệu xây dựng chủ yếu là gạch nên hình dạng nguyên thủy của chúng rất khó xác định qua sự tàn phá củ thời gian. - Những đô thị Lưỡng Hà ban đầu mang tính chất trung tâm hành chính và tôn giáo của công xã nông thôn, sau đó mới trở thành các trung tâm thương mại trên cơ sở phát triển thủ công nghiệp và thương mại. Các thành phố được xây trên những bệ cao nhân tạo để tránh lũ lụt. Các công trình chủ chốt của thành phố được xây dưng với quy mô cao, rộng. Tường thành có tính chất phòng ngự rất mạnh. Tôn giáo và thuật xem sao rất được chú trọng và thể hiện ở việc xây các công trình tôn giáo to lớn. Hệ thống đường khá hoàn thiện, nhiều khi được lát đá và hệ thống thiết bị kỹ thuật cấp, thoát nước tương đối được chú trọng. Đô thị tiêu biểu: Khorsabad, Babylon, Persepolis. Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 9 Hình 1.3.1: Bản đồ tổng quan Lưỡng Hà cổ đại Hình 1.3.2: Thành Babylon (605- 563 Tr.CN). Tháp Zigourat (tháp Babel) Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 10 Hình 1.3.2: Vườn treo Babylon Hình 1.3.3: Thành Babylon Đô thị khu vực Lưỡng Hà có vai trò quan trọng, là trung tâm chính trị, kinh tế của vùng. 1.4. Đô thị Ba Tƣ cổ đại Nằm kề bên và ngăn cách Lưỡng Hà bởi dãy núi thấp Zargos, là cùng cao nguyên cằn cỗi, ngày nay thuộc Iran. 1.5. Đô thị Hy Lạp và La Mã cổ 1.5.1. Đô thị Hy Lạp cổ đại: Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 11 - Trong thời kỳ đầu, nền văn minh Hy Lạp bắt đầu tại các đảo trong vùng biển Địa Trung Hải với nền văn minh của đảo Crete chiếm địa vị chủ đạo. Như chiếc cầu nối giữa hai thế giới Đông-Tây, Crete với thủ phủ Knossos, đã truyền bá nền văn minh và trao đổi hàng hóa đi khắp khu vực. Vào những năm 1400 TCN, nền văn minh tại Crete bắt đầu suy thoái và nhường bước cho những nền văn minh mới nổi lên ở trên đất liền với các đô thị tiêu biểu như Tyrins, Mycenae. - Từ thế kỷ thứ VIII-VI TCN, sau khi thiết lập nền Cộng hoà quý tộc và chế độ Dân chủ chủ nô, một loạt các đô thị đã phát triển hoặc mới xuất hiện. Ngoài những thành phố lớn tại chính quốc như Athens và Sparta, đế quốc Hy Lạp cổ đại bấy giờ còn có nhiều đô thị nằm ở nhiều vùng khắp Nam Âu, Tây Á và Bắc Phi. - Các thành phần của đô thị Hy Lạp cổ đại: + Agora: là trung tâm chính trị, hành chính và thương mại của thành phố Hy Lạp cổ đại bao gồm: quảng trường chợ, các cửa hàng, nơi sinh hoạt văn hoá công cộng… Agora thường có hình dáng hình học và được bao quanh bởi những hàng cột thức. Agora có xuất xứ từ Hy Lạp và sau này ảnh hưởng khá lớn đến sự hình thành các Forum thời kỳ La Mã. + Acropole: là trung tâm tôn giáo, tín ngưỡng của đô thị với các đền thờ gắn bó với các hoạt động nghi lễ của người dân đồng thời là lớp thành phòng vệ cuối cùng. Acrople thường chiếm lĩnh các địa thế cao, những khu đất trội lên khỏi thành phố, gắn bó với khung cảnh thiên nhiên, tạo nên các điểm nhìn đẹp. - Hình thái học đô thị Hy Lạp cổ đại: + Kiểu bố cục tự do: thường xuất hiện ở các đô thị thời kỳ đầu với Acrople và Agora là những hạt nhân tổ hợp chính. Các thành phần khác của đô thị tập trung xung quanh hai trung tâm này và tổ chức phù hợp với điều kiện địa hình. + Kiểu ô cờ (Gridion): đô thị được tổ chức theo lý thuyết về xây dưng đô thị của kiến trúc sư và nhà quy hoạch Hypodamos. Ông chủ trương một mặt bằng đô thị phải được suy nghĩ như là một bản thiết kế dành cho người dân, chức năng sử dụng của nhà và không gian công cộng cần được chú ý trong quy hoạch đường phố. Đô thị tiêu biểu: Athens, Tyrins, Millet. Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 12 Tóm tắt những đặc điểm chính về tổ chức không gian đô thị Hi Lạp cổ đại: Khác với cư dân Ai Cập và Tây Á, cư dân Hi lạp có ý thức tổ chức cuộc sống công đồng đô thị thông qua các sinh hoạt công cộng. Đô thị là 1 hệ thống có bản sắc riêng của địa phương, trong đó giữa các chức năng đô thị có mối liên hệ sử dụng và trực tiếp. Cơ cấu chức năng đô thị Hi lạp cổ đại bao gồm 4 khu vực: - Khu vực lưu trú - Khu vực tôn giáo- tín ngưỡng (Acropolis) - Khu vực sinh hoạt công cộng - Khu vực sản xuất thủ công và nông nghiệp Khu vực tôn giáo tín ngưỡng và khu vực sinh hoạt công cộng là 2 khu vực thỏa mãn mọi nhu cầu cuộc sống công cộng của công đồng dân cư nên được người Hi Lạp đặc biệt quan tâm. Đô thị Hi Lạp có 2 dạng mặt bằng phổ biến: bố cục tự do và bố cục hình học. 1.4.2. Đô thị La Mã cổ Văn minh La Mã (Roma) cổ đại hình thành trên bán đảo Italia. Từ 1 quốc gia thành thị nhỏ bé xuất hiện vào thế kỷ VIII Tr.CN nằm ở biên giới phía Bắc của Hi Lạp cổ đại thành Roma phát triển, trở thành thủ đô của đế quốc La Mã, hùng mạnh nhất trong thế giới cổ đại. - Hoạt động xây dựng đô thị La Mã cổ đại bắt đầu từ sự phát triển dần dần Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 13 của thành Rome theo lịch sử phát triển của đế chế La Mã. Vào thời kỳ đầu, các điểm dân cư cũng như những đô thị La Mã chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Etruria bản địa và văn hoá Hy Lạp cổ đại. Tập quán xây dựng đô thị của người Etruria được mô tả như sau: "Những bậc trưởng lão đã cho trâu cày một vòng tròn, vẽ ra vòng tròn đó để làm vườn hoa, rồi chia khu đất thành phố ra làm bốn phần, con đường hướng Bắc-Nam gọi là Cardo, con đường hướng Đông-Tây gọi là Decumanus...". Người La Mã sau này trong thành phố cũng có hai trục đường chính mang tên như vậy. - Cùng với sự phát triển của La Mã, ranh giới của đế quốc đã mở rộng khắp Tây Âu, Tiểu Á-Tế Á và Bắc Phi. Trong các cuộc chiến tranh mở rộng đất đai đó, người La Mã đã xây dựng hàng loạt những đô thị nhỏ kiểu doanh trại về sau trở thành những hạt nhân của các đô thị thời Trung cổ. Tại Rome, các hoàng đế La Mã đã rất chú ý xây dựng các Forum đánh dấu triều đại trị vì của mình. Đây là nơi dùng làm nơi hiệu triệu, hành lễ, xử phạt, chiêu đãi, diễu hành... Các Forum của các hoàng đế đặt cạnh nhau hình thành quần thể Forum tại Rome với các Forum như: Nerva, Romanum, Caesar, Augustus, Trajan... Dưới thời La Mã, kỹ thuật đô thị đã đạt trình độ rất cao với những cầu dẫn nước nhiều tầng, hệ thống đường sá La Mã hết sức bền chắc với hệ thống thoát nước hai bên. Đô thị tiêu biểu: Rome, Timgad, Pompei. Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 14 CHƢƠNG 2: ĐÔ THỊ THỜI KỲ TRUNG ĐẠI VÀ PHỤC HƢNG 2.1 Bối cảnh hình thành đô thị trung đại: Mâu thuẫn giai cấp sâu sắc trong lòng chế độ chiếm hữu nô lệ là nguyên nhân cơ bản làm tan rã và chấm dứt 1 thời kỳ lịch sử kéo dài, trong đó nổi bật đặc điểm 1 nước lớn thống trị nhiều dân tộc và hợp nhất thành 1 nền văn hóa chung- văn hóa cổ đại. chế độ phong kiến thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ. phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, và thương mại đã thúc đẩy xã hội phát triển, thế giới bước sang 1 trật tự kinh tế- xã hội mới với sự xuất hiện những quốc gia phong kiến độc lập ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Khái niệm trung đại chỉ một giai đoạn phát triển tương ứng với giai đoạn lịch sử phát triển hình thái xã hội phong kiến. Ở Châu Âu, xã hội phong kiến hình thành từ thế kỉ V-XV, ở Châu Á, Phi tồn tại lâu hơn, đến những năm đầu thế kỉ XX. Sự hình thành Nhà nước phong kiến độc lập ở Châu Âu có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử trung đại thế giới. Từ thế kỷ V-XI: thời kì các lãnh chúa phong kiến chinh phục đất đai, củng cố quyền lực. Chiến tranh liên miên làm trì trệ nền kinh tế phong kiến. Các đô thị lớn bị tàn phá, trở thành hoang vắng, không còn là những trung tâm chính trị, kinh tế xã hội quan trọng, nơi tập trung dân cư đông đúc chi phối sự phát triển của vùng lãnh thổ xung quanh như đã tồn tại trong xã hội cổ đại. Đặc điểm đô thị thời kỳ này: sự phân tán rải rác trong cảnh quan nông thôn các đô thị- pháo đài, đô thị dinh thự quy mô nhỏ. Từ thế kỉ XI trở đi, nhà nước phong kiến độc lập khẳng định vai trò thống trị của mình, hoạt đông sản xuất thủ công có điều kiện phát triển, kéo theo sự phát triển của thương mại, ngoại thương làm cho vai trò kinh tế và chính trị của các đô thị tăng lên, thúc đẩy xã hội phát triển. Nét nổi bật của đô thị thời kì này: các đô thị lớn có lịch sử phát triển từ thời cổ đại, nhất là các đô thị thủ đô, được hồi sinh với sự tham gia tích cực của bộ máy chính quyền phong kiến., của tôn giáo và của tầng lớp giàu có. Các tổng thể kiến trúc đô thị độc lập có chức năng hành chính, tôn giáo được cải tạo và xây dựng mới để trở thành hạt nhân trung tâm. Thành phố được tổ chức và xây dựng theo các phường hội thủ công chuyên môn hóa. Ngoài cùng là vòng thành lũy, hào nước bảo vệ. Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 15 số lượng nhiều hay ít cá phường nghề và vòng thành kế tiếp nhau phụ thuộc vào sự phát triển và độ lớn của đô thị. Một loại đô thị là trung tâm kinh tế thương mại, ngoại thương được hình thành và phát triển ở những vị trí giao thông thuận lợi: đường biển, đường bộ. các trung tâm này có vai trò quan trọng thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển trên nền tảng hợp nhất sản xuất thủ công dưới hình thức công trường thủ công và là tiền đề cho xã hội tư bản sơ khai hình thành ở giai đoạn sau. Tóm lại, quá trình phát triển đô thị thời kì trung đại, thiếu tính kế thừa truyền thống văn hóa cổ đại, mà chủ yếu khai thác những truyền thống xây dựng địa phương vốn rất khác nhau giữa các vùng và các quốc gia. Nếu văn hóa đô thị cổ đại đã định hình theo 1 mô hình tổ chức đô thị tương đối thống nhất thì văn hóa đô thị trung đại có xu hướng đa dạng hóa trong hình thái tổ chức không thích hợp với những biến động chính trị, kinh tế của xã hội phong kiến, điều kiện địa lý tự nhiên và truyền thống văn hóa địa phương. Do đó, muốn nghiên cứu tính đa dạng của hình thái đô thị trung đại thì cần phải khảo sát nhiều loại hình đô thị, theo các giai đoạn phát triển khác nhau. Từ đó, xác định được 1 số đặc điểm chung của quá trình phát triển đô thị trung đại. 2.2. Đô thị thời kỳ Trung Đại Châu Âu: Tại các nước Châu Âu, chế độ phong kiến bắt đầu hình thành vào thế kỷ thứ V sau khi đế quốc La Mã tan rã. Sự phân nhỏ châu Âu đã khiến cho đô thị bước sang một thời kỳ tiêu điều, quy mô các thành phố co lại, sự hoang phế tràn ngập thay cho sự sầm uất và lộng lẫy trước đó. Đêm dài Trung cổ đã tẩy sạch và phá trụi những nền văn minh xây dựng đô thị có được từ thời Hy Lạp và La Mã trước đó. Các qúy tộc phong kiến cát cứ trên những lãnh thổ nhỏ bằng các pháo đài, những thành luỹ nhỏ xây dựng bằng gỗ với hào nước, cầu rút… Nhà thờ trở thành hạt nhân đô thị, không ngừng củng cố vị trí của tôn giáo của mình trong suốt nhiều thế kỷ. - Đến thế kỷ thứ IX và thế kỷ thứ X, nền kinh tế châu Âu, trước hết là kinh tế nông nghiệp, đã có những thay đổi nhất định. Nhưng Trung và Tây Âu vẫn bị chia thành quá nhiều nước nhỏ manh mún, nên sức bật kinh tế và hoạt động xây dựng đô thị của thời kỳ này chỉ được coi như là những dấu hiệu mở đầu. Đến thế kỷ XI và XII diện tích phần đất châu Âu Thiên chúa giáo mở rộng đến tận ranh Lược khảo Lịch sử Đô thị - TC Quản lý Đô thị- Trang 16 giới của Đông La Mã trước kia. Lúc bấy giờ, châu Âu đã phát triển được một hệ thống đô thị có mật độ lớn với mạng lưới các đường giao thông thuỷ, bộ chằng chịt. Lịch sử phát triển và phục hưng đô thị trung thế kỷ bắt đầu bằng sự phát triển nông nghiệp có thặng dư, sự phát triển thương nghiệp và gắn liền với những tuyến đường buôn bán và hành hương tôn giáo. - Trong đô thị trung thế kỷ, ba yếu tố quảng trường chợ, nhà thờ và toà thị chính gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhìn chung, mặt
Tài liệu liên quan