Vứt rác, khạc nhổ và đi bậy nơi công cộng, phóng nhanh giành đường 
vượt ẩu, chen lấn xô đẩy mỗi chỗ xếp hàng Ai ai cũng có thể kể ra 
hàng chục thói xấu của người Việt. NVứt rác, khạc nhổ và đi bậy nơi 
công cộng, phóng nhanh giành đường vượt ẩu, chen lấn xô đẩy mỗi chỗ 
xếp hàng Ai ai cũng có thể kể ra hàng chục thói xấu của người Việt. 
Nhưng đâu phải có những dân tộc sinh ra đã thích nhổ bậy và chen 
hàng. Vấn đề nằm ở ý thức, và ý thức lại là cái có thể thay đổi. Đây 
chính là khi marketing xã hội ra tay.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 19 trang
19 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 2129 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Marketing xã hội: Quá nhiều việc để làm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Marketing xã hội: Quá nhiều việc để làm 
Vứt rác, khạc nhổ và đi bậy nơi công cộng, phóng nhanh giành đường 
vượt ẩu, chen lấn xô đẩy mỗi chỗ xếp hàng… Ai ai cũng có thể kể ra 
hàng chục thói xấu của người Việt. NVứt rác, khạc nhổ và đi bậy nơi 
công cộng, phóng nhanh giành đường vượt ẩu, chen lấn xô đẩy mỗi chỗ 
xếp hàng… Ai ai cũng có thể kể ra hàng chục thói xấu của người Việt. 
Nhưng đâu phải có những dân tộc sinh ra đã thích nhổ bậy và chen 
hàng. Vấn đề nằm ở ý thức, và ý thức lại là cái có thể thay đổi. Đây 
chính là khi marketing xã hội ra tay. 
Marketing không phải khái niệm mới ở Việt Nam, nhưng marketing xã hội 
(social marketing) thì vẫn còn rất mới mẻ. Nó được định nghĩa là việc ứng 
dụng marketing hướng vào và nhằm thay đổi hành vi của một nhóm người 
hoặc toàn xã hội, để đạt được lợi ích chung cho nhóm người hoặc toàn xã 
hội đó. 
Marketing xã hội 
chính thức được coi 
là một lĩnh vực 
marketing kể từ 
năm 1971, khi 
huyền thoại 
marketing thế giới 
Philip Kotler và 
Gerald Zaltman 
cùng xuất bản cuốn 
"Social Marketing: 
An Approach to 
Planned Social 
Change" (tạm dịch: 
Marketing xã hội: 
một cách tiếp cận 
những thay đổi xã 
hội có kế hoạch). 
Trong khi còn mới với Việt Nam thì ở trên thế 
giới, marketing xã hội đã phát triển rất mạnh. 
Hàng trăm chương trình marketing xã hội đã và 
đang được áp dụng tại rất nhiều nước nhằm thay 
đổi hành vi của các công dân: không hút thuốc lá 
nơi công cộng, chống vi phạm bản quyền sở hữu 
trí tuệ, ngừng tiêu diệt tê giác sừng đen v.v. 
Các chương trình thường được thực hiện một cách 
cực kỳ ấn tượng và sáng tạo nhằm đạt hiệu quả 
cao nhất. 
Một tổ chức chống thuốc lá ở Mỹ từng thiết kế 
một chương trình marketing xã hội lớn, sử dụng 
phương tiện quảng cáo trên ấn phẩm (printed ad.). 
Hình ảnh nổi tiếng gắn với chương trình này là bức ảnh (ghép kỹ xảo) chụp 
một người đàn ông hút thuốc, đứng cách anh ta không xa là cả một lũ kền 
kền đang chờ đợi; chúng sẽ không phải chờ lâu vì điếu thuốc sẽ rút ngắn tuổi 
thọ của anh ta. 
Để chống thói xấu phóng nhanh vượt ẩu của các "ma tốc độ", cơ quan giao 
thông tại bang New South Wales (Australia) cũng thực hiện marketing xã 
hội. Thông điệp được truyền tải qua một đoạn phim vui, trong đó mỗi khi 
thấy một anh lái xe phóng ẩu, cánh phụ nữ bên đường lại cười bảo nhau: 
"Chắc gã này "có vấn đề", thiếu tự tin nên phải làm thế để chứng tỏ bản lĩnh 
đàn ông". 
Marketing xã hội ở Việt Nam 
Điều có thể khiến nhiều người ngạc nhiên là tuy chưa bao giờ được đề cập 
một cách chính thức ở Việt Nam (và do đó còn mới mẻ), nhưng marketing 
xã hội thật ra đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu. Đó chính là các chương 
trình tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình, chống "ma túy và mại dâm – con 
đường dẫn tới HIV/AIDS", hoặc vận động toàn dân đi bầu cử. 
Một 
trong 
những 
thói xấu 
Khác với marketing 
thương mại 
(commercial 
marketing), 
marketing xã hội 
được thực hiện 
không phải bởi các 
công ty nhằm mục 
đích lợi nhuận, mà 
bởi chính phủ hoặc 
các tổ chức xã hội, 
vì lợi ích chung và 
phi lợi nhuận. 
của 
người 
Việt. 
(Ảnh lấy 
từ 
Internet) 
Hình thành đã từ lâu, nhưng những chiến dịch ấy không được chú trọng với 
tư cách marketing xã hội. Chúng được coi là các chương trình tuyên truyền, 
vận động của các cơ quan chính phủ. Cách thể hiện cũng ở mức khá đơn 
giản, kiểu "marketing thô sơ": kẻ chữ, trương áp phích, băng rôn khẩu hiệu, 
và đơn giản nhất là… sử dụng hệ thống loa phường, loa xã với âm thanh 
vang dội hang cùng ngõ hẻm. 
Nếu không tính đến yếu tố "chuyên nghiệp, sáng tạo, ấn tượng", chỉ xét về 
hiệu quả, thì các chương trình marketing xã hội đã thực hiện ở Việt Nam 
không phải là không thành công. Tác dụng của marketing xã hội trong việc 
làm thay đổi hành vi của người dân là không thể phủ nhận. 
Và chuyện bây giờ mới kể 
DKT International là một tổ chức phi chính phủ quốc tế, có trụ sở ở 
Washington DC. Họ là tổ chức tiên phong về marketing xã hội trong nhiều 
lĩnh vực, như: tránh thai bằng các phương pháp khoa học, chống HIV/AIDS. 
Năm 1993, DKT International vào Việt Nam (văn phòng của họ hiện đóng 
tại Trung Hòa Nhân Chính – Hà Nội). Những năm đầu thập niên 90 đó, Việt 
Nam mở cửa chưa lâu, đã phải đối mặt với nguy cơ bùng nổ dân số, sự gia 
tăng tệ nạn xã hội và đại dịch HIV/AIDS. 
Công việc của DKT là hỗ trợ Việt Nam thực hiện một chương trình phân 
phối bao cao su trên toàn quốc. Sản phẩm được trợ giá, bán rất rẻ để tạo ra 
một mạng lưới an toàn cho người dân trước căn bệnh thế kỷ AIDS. 
Chen lấn, xô đẩy - hành vi xấu cần được 
thay đổi. (Ảnh lấy từ Internet) 
Vấn đề vấp phải là khi ấy, người dân hãy còn thiếu thông tin về các biện 
pháp an toàn tình dục. Người ta không ý thức được mức độ quan trọng của 
việc sử dụng bao cao su trong phòng chống AIDS. Tuy nhiên, cản trở lớn 
nhất chính là tâm lý ngượng ngùng của người Á Đông. Kể cả khi được cấp 
phát miễn phí, người ta vẫn ngại, nói gì tới việc chủ động hỏi mua bao cao 
su. 
Hiểu được "cái khó" đó, DKT Việt Nam đã có một chiến lược marketing xã 
hội có thể nói là rất khôn ngoan. 
Hãy nói "OK"! 
Vì cụm từ "bao cao su" với người 
Việt Nam thật khó nói, các nhà 
marketing xã hội có sáng kiến thay nó 
bằng một từ rất ngắn gọn, phổ biến, 
dễ đọc: OK. Họ hiểu rằng, phải làm 
sao để người đi mua bao cao su có thể 
nói tránh cụm từ "nhạy cảm" ấy. Thay 
vì hỏi mua bao cao su, anh ta chỉ cần 
bảo người bán hàng: "Tôi muốn mua 
mấy cái OK". 
Chiến dịch quảng cáo cho bao cao su 
OK tập trung vào khẩu hiệu "Nhà vô 
địch". DKT Việt Nam phát triển khẩu 
hiệu này dựa vào một cuộc điều tra về 
nhận thức thương hiệu. Họ nhận thấy, 
đối với sản phẩm bao cao su, người 
tiêu dùng thích sức bền và độ mỏng 
hơn tất cả các tiêu chí khác. Khẩu 
hiệu "Nhà vô địch" thể hiện hai tiêu chí chất lượng này. 
Chương trình marketing xã hội của DKT Việt Nam diễn ra rầm rộ: Tháng 
11/1994, bao cao su OK được giới thiệu ở Việt Nam như một sản phẩm hữu 
ích và tiện lợi. Một hệ thống biển tấm lớn (quảng cáo ngoài trời), những 
slogan trên xe buýt (quảng cáo di động) thu hút sự chú ý của người dân. 
Quảng cáo trên truyền hình, báo giấy cũng vào cuộc mà không vấp phải rào 
cản "liệu có vi phạm thuần phong mỹ tục?". 
Logo OK với chữ OK màu trắng như bông hoa giữa hai chiếc lá xanh, nổi 
bật trên nền đỏ tươi, tạo cảm giác vui nhộn, gần gũi. Chiến dịch marketing 
xã hội của DKT Việt Nam thành công lớn: Gần 100 triệu bao cao su đã được 
tiêu thụ hết thay vì phân phát miễn phí khó khăn như trước đó. 
Ngày nay, với người Việt Nam, OK có nghĩa là bao cao su. Nó chắc chắn sẽ 
luôn là "người bạn đồng hành" của xã hội trong cuộc chiến chống căn bệnh 
thế kỷ. 
Cần lắm những chương trình marketing xã hội 
Nếu không có một chiến dịch 
marketing xã hội hiệu quả, sản phẩm 
này sẽ không bao giờ trở thành 
"người bạn đồng hành" của xã hội 
trong cuộc chiến chống AIDS. 
Câu chuyện trên đây chỉ là một trong vô vàn ví dụ cho thấy sự quan trọng, 
cần thiết, và cả sự thú vị của marketing xã hội ở Việt Nam. 
Chúng ta đã nói nhiều về những thói hư tật xấu của "người Việt xấu xí": nói 
tục chửi bậy, xả rác bừa bãi, chen lấn xô đẩy nơi công cộng… Có cả những 
thói xấu nhẹ nhàng hơn, như chăm hút thuốc uống rượu, lười tập thể dục! 
Nhưng nói không thôi chưa đủ, phải hành động. Hành động để thay đổi hành 
vi của cộng đồng. Và đây chính là lúc cần đến marketing xã hội. 
Vì hành vi xấu còn nhiều, nên đất để marketing xã hội phát huy hiệu quả 
cũng còn rất rộng. Chúng ta cần lắm những nhà marketing xã hội, những 
chương trình marketing xã hội đi vào lòng người và làm thay đổi lòng người. 
hưng đâu phải có những dân tộc sinh ra đã thích nhổ bậy và chen hàng. 
Vấn đề nằm ở ý thức, và ý thức lại là cái có thể thay đổi. Đây chính là 
khi marketing xã hội ra tay. 
Marketing không phải khái niệm mới ở Việt Nam, nhưng marketing xã hội 
(social marketing) thì vẫn còn rất mới mẻ. Nó được định nghĩa là việc ứng 
dụng marketing hướng vào và nhằm thay đổi hành vi của một nhóm người 
hoặc toàn xã hội, để đạt được lợi ích chung cho nhóm người hoặc toàn xã 
hội đó. 
Marketing xã hội 
chính thức được coi 
là một lĩnh vực 
marketing kể từ 
năm 1971, khi 
huyền thoại 
marketing thế giới 
Philip Kotler và 
Gerald Zaltman 
cùng xuất bản cuốn 
"Social Marketing: 
An Approach to 
Planned Social 
Change" (tạm dịch: 
Marketing xã hội: 
Trong khi còn mới với Việt Nam thì ở trên thế 
giới, marketing xã hội đã phát triển rất mạnh. 
Hàng trăm chương trình marketing xã hội đã và 
đang được áp dụng tại rất nhiều nước nhằm thay 
đổi hành vi của các công dân: không hút thuốc lá 
nơi công cộng, chống vi phạm bản quyền sở hữu 
trí tuệ, ngừng tiêu diệt tê giác sừng đen v.v. 
Các chương trình thường được thực hiện một cách 
cực kỳ ấn tượng và sáng tạo nhằm đạt hiệu quả 
cao nhất. 
Một tổ chức chống thuốc lá ở Mỹ từng thiết kế 
một chương trình marketing xã hội lớn, sử dụng 
phương tiện quảng cáo trên ấn phẩm (printed ad.). 
Hình ảnh nổi tiếng gắn với chương trình này là 
bức ảnh (ghép kỹ xảo) chụp một người đàn ông 
hút thuốc, đứng cách anh ta không xa là cả một lũ 
kền kền đang chờ đợi; chúng sẽ không phải chờ 
lâu vì điếu thuốc sẽ rút ngắn tuổi thọ của anh ta. 
Để chống thói xấu phóng nhanh vượt ẩu của các "ma tốc độ", cơ quan giao 
thông tại bang New South Wales (Australia) cũng thực hiện marketing xã 
hội. Thông điệp được truyền tải qua một đoạn phim vui, trong đó mỗi khi 
thấy một anh lái xe phóng ẩu, cánh phụ nữ bên đường lại cười bảo nhau: 
"Chắc gã này "có vấn đề", thiếu tự tin nên phải làm thế để chứng tỏ bản lĩnh 
đàn ông". 
Marketing xã hội ở Việt Nam 
Điều có thể khiến nhiều người ngạc nhiên là tuy chưa bao giờ được đề cập 
một cách chính thức ở Việt Nam (và do đó còn mới mẻ), nhưng marketing 
xã hội thật ra đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu. Đó chính là các chương 
trình tuyên truyền kế hoạch hóa gia đình, chống "ma túy và mại dâm – con 
đường dẫn tới HIV/AIDS", hoặc vận động toàn dân đi bầu cử. 
một cách tiếp cận 
những thay đổi xã 
hội có kế hoạch). 
Khác với marketing 
thương mại 
(commercial 
marketing), 
marketing xã hội 
được thực hiện 
không phải bởi các 
công ty nhằm mục 
đích lợi nhuận, mà 
bởi chính phủ hoặc 
các tổ chức xã hội, 
vì lợi ích chung và 
phi lợi nhuận. 
Một trong những thói xấu của người Việt. (Ảnh lấy 
từ Internet) 
Hình thành đã từ lâu, nhưng những chiến dịch ấy không được chú trọng với 
tư cách marketing xã hội. Chúng được coi là các chương trình tuyên truyền, 
vận động của các cơ quan chính phủ. Cách thể hiện cũng ở mức khá đơn 
giản, kiểu "marketing thô sơ": kẻ chữ, trương áp phích, băng rôn khẩu hiệu, 
và đơn giản nhất là… sử dụng hệ thống loa phường, loa xã với âm thanh 
vang dội hang cùng ngõ hẻm. 
Nếu không tính đến yếu tố "chuyên nghiệp, sáng tạo, ấn tượng", chỉ xét về 
hiệu quả, thì các chương trình marketing xã hội đã thực hiện ở Việt Nam 
không phải là không thành công. Tác dụng của marketing xã hội trong việc 
làm thay đổi hành vi của người dân là không thể phủ nhận. 
Và chuyện bây giờ mới kể 
DKT International là một tổ chức phi chính phủ quốc tế, có trụ sở ở 
Washington DC. Họ là tổ chức tiên phong về marketing xã hội trong nhiều 
lĩnh vực, như: tránh thai bằng các phương pháp khoa học, chống HIV/AIDS. 
Năm 1993, DKT International vào Việt Nam (văn phòng của họ hiện đóng 
tại Trung Hòa Nhân Chính – Hà Nội). Những năm đầu thập niên 90 đó, Việt 
Nam mở cửa chưa lâu, đã phải đối mặt với nguy cơ bùng nổ dân số, sự gia 
tăng tệ nạn xã hội và đại dịch HIV/AIDS. 
Công việc của DKT là hỗ trợ Việt Nam thực hiện một chương trình phân 
phối bao cao su trên toàn quốc. Sản phẩm được trợ giá, bán rất rẻ để tạo ra 
một mạng lưới an toàn cho người dân trước căn bệnh thế kỷ AIDS. 
Chen lấn, xô đẩy - hành vi xấu cần được 
thay đổi. (Ảnh lấy từ Internet) 
Vấn đề vấp phải là khi ấy, người dân hãy còn thiếu thông tin về các biện 
pháp an toàn tình dục. Người ta không ý thức được mức độ quan trọng của 
việc sử dụng bao cao su trong phòng chống AIDS. Tuy nhiên, cản trở lớn 
nhất chính là tâm lý ngượng ngùng của người Á Đông. Kể cả khi được cấp 
phát miễn phí, người ta vẫn ngại, nói gì tới việc chủ động hỏi mua bao cao 
su. 
Hiểu được "cái khó" đó, DKT Việt Nam đã có một chiến lược marketing xã 
hội có thể nói là rất khôn ngoan. 
Hãy nói "OK"! 
Vì cụm từ "bao cao su" với người 
Việt Nam thật khó nói, các nhà 
marketing xã hội có sáng kiến thay nó 
bằng một từ rất ngắn gọn, phổ biến, 
dễ đọc: OK. Họ hiểu rằng, phải làm 
sao để người đi mua bao cao su có thể 
nói tránh cụm từ "nhạy cảm" ấy. Thay 
vì hỏi mua bao cao su, anh ta chỉ cần 
bảo người bán hàng: "Tôi muốn mua 
mấy cái OK". 
Chiến dịch quảng cáo cho bao cao su 
OK tập trung vào khẩu hiệu "Nhà vô 
địch". DKT Việt Nam phát triển khẩu 
hiệu này dựa vào một cuộc điều tra về 
nhận thức thương hiệu. Họ nhận thấy, 
đối với sản phẩm bao cao su, người 
tiêu dùng thích sức bền và độ mỏng 
hơn tất cả các tiêu chí khác. Khẩu 
hiệu "Nhà vô địch" thể hiện hai tiêu chí chất lượng này. 
Chương trình marketing xã hội của DKT Việt Nam diễn ra rầm rộ: Tháng 
11/1994, bao cao su OK được giới thiệu ở Việt Nam như một sản phẩm hữu 
ích và tiện lợi. Một hệ thống biển tấm lớn (quảng cáo ngoài trời), những 
slogan trên xe buýt (quảng cáo di động) thu hút sự chú ý của người dân. 
Quảng cáo trên truyền hình, báo giấy cũng vào cuộc mà không vấp phải rào 
cản "liệu có vi phạm thuần phong mỹ tục?". 
Logo OK với chữ OK màu trắng như bông hoa giữa hai chiếc lá xanh, nổi 
bật trên nền đỏ tươi, tạo cảm giác vui nhộn, gần gũi. Chiến dịch marketing 
xã hội của DKT Việt Nam thành công lớn: Gần 100 triệu bao cao su đã được 
tiêu thụ hết thay vì phân phát miễn phí khó khăn như trước đó. 
Ngày nay, với người Việt Nam, OK có nghĩa là bao cao su. Nó chắc chắn sẽ 
luôn là "người bạn đồng hành" của xã hội trong cuộc chiến chống căn bệnh 
thế kỷ. 
Cần lắm những chương trình marketing xã hội 
Nếu không có một chiến dịch 
marketing xã hội hiệu quả, sản phẩm 
này sẽ không bao giờ trở thành 
"người bạn đồng hành" của xã hội 
trong cuộc chiến chống AIDS. 
Câu chuyện trên đây chỉ là một trong vô vàn ví dụ cho thấy sự quan trọng, 
cần thiết, và cả sự thú vị của marketing xã hội ở Việt Nam. 
Chúng ta đã nói nhiều về những thói hư tật xấu của "người Việt xấu xí": nói 
tục chửi bậy, xả rác bừa bãi, chen lấn xô đẩy nơi công cộng… Có cả những 
thói xấu nhẹ nhàng hơn, như chăm hút thuốc uống rượu, lười tập thể dục! 
Nhưng nói không thôi chưa đủ, phải hành động. Hành động để thay đổi hành 
vi của cộng đồng. Và đây chính là lúc cần đến marketing xã hội. 
Vì hành vi xấu còn nhiều, nên đất để marketing xã hội phát huy hiệu quả 
cũng còn rất rộng. Chúng ta cần lắm những nhà marketing xã hội, những 
chương trình marketing xã hội đi vào lòng người và làm thay đổi lòng người. 
Một nước đang phát triển như Việt Nam rất có “đất” để marketing xã 
hội phát huy tác dụng. Có hàng trăm hành vi của cộng đồng cần thay 
đổi, liên quan tới hàng trăm vấn đề xã hội: phòng chống HIV/AIDS, 
chống ma túy, giữ vệ sinh nguồn nước, ăn chín uống sôi để tránh dịch 
bệnh, kế hoạch hóa gia đình, nuôi con bằng sữa mẹ... 
>> Marketing xã hội: Quá nhiều việc để làm (1) 
Chỉ tính riêng một tổ chức như WWF (Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên) đã 
có tới hơn 50 dự án tuyên truyền đang được tiến hành trên toàn Việt Nam 
nhằm bảo vệ động thực vật hoang dã quý hiếm, chống ô nhiễm, chống chặt 
phá rừng trái phép, chống nạn dùng điện đánh bắt cá... 
“Ở Việt Nam bây giờ chỉ còn 3-4 con tê giác một sừng, thậm chí có thống kê 
cho rằng chúng ta chỉ còn đúng một con, mà lại là con đực. Hổ càng ngày 
càng hiếm, mặc dù đã được bảo vệ theo Nghị định 32. Cứ với tình hình tiêu 
thụ cao hổ cốt và dùng vuốt, răng hổ làm đồ trang sức thế này thì sẽ không 
còn con nào” - một cán bộ dự án của WWF cho biết. 
Nhưng nhiều chủ nhà hàng ăn và cửa hàng đồ trang sức không bức xúc như 
chị. Và hình như việc cả Việt Nam chỉ còn 100-150 con hổ không phải là 
điều khiến nhiều người dân bận tâm. 
Loài hổ đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam 2007, thông báo tình 
trạng cực kỳ nguy cấp. Đó là một trong 6 loài động vật hoang dã 
mà WWF xác định ưu tiên bảo vệ ở Việt Nam. (Ảnh: Kim Hồng) 
Nước ngoài đang phải làm hộ ta... 
Từ năm 2007 đến nay, WWF Việt Nam triển khai dự án “Thay đổi hành vi - 
Giảm tiêu thụ các sản phẩm động thực vật hoang dã tại Hà Nội, Việt Nam”. 
Chương trình marketing xã hội này sử dụng kết hợp nhiều hình thức tuyên 
truyền: tổ chức thi ý tưởng kịch bản phim bảo vệ động vật hoang dã, sản 
xuất các đoạn phim ngắn, phát hành ấn phẩm tuyên truyền… 
Các cán bộ của dự án xác định rõ, động vật hoang dã (hổ, tê giác, tê tê, 
gấu…) được tiêu thụ chủ yếu tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM, 
cho các mục đích làm thực phẩm, làm thuốc và đồ trang sức. 
Tuy nhiên, chương trình lại được thực hiện chủ yếu trên địa bàn Hà Nội và 
nhằm vào một nhóm đối tượng có vẻ như ít liên quan trực tiếp: trẻ em. Lý do 
nằm ở vấn đề muôn thuở là kinh phí. 
WWF Việt Nam hy vọng, sang giai đoạn sau của dự án, nguồn tài trợ sẽ 
nhiều hơn để họ có thể mở rộng việc tuyên truyền tới nhóm đối tượng chính, 
tiêu thụ động vật hoang dã nhiều nhất, đó là các doanh nhân. 
Nói chung, có vô số vấn đề đặt ra cho marketing xã hội, ý tưởng triển khai 
cũng không thiếu. Nhưng kinh phí để chương trình phát huy hiệu quả cao 
nhất thì không phải bao giờ cũng dồi dào, nhất là nếu chỉ do các tổ chức phi 
chính phủ (NGO) nước ngoài thực hiện và trông mong vào tài trợ. 
Ngoài ra, các NGO nước ngoài thường xếp các vấn đề xã hội cần giải quyết 
theo thứ tự ưu tiên mà họ xác định, cho dù có thể chưa “gãi đúng chỗ ngứa”. 
Người dân thành thị có thể tự hỏi tại sao chưa có những chương trình 
marketing xã hội để thay đổi các hành vi rất gây bức xúc, như vấn nạn chặt 
chém khách du lịch nước ngoài, hay xả rác làm bẩn môi trường công cộng. 
Nước sạch nông thôn - vấn đề thiết thực. (Ảnh lấy từ 
Internet) 
Câu trả lời, theo ông Lại Tiến Mạnh, một chuyên gia về marketing xã hội: 
“Vì các NGO ấy là của nước ngoài; họ không hiểu tình hình Việt Nam như 
cách chúng ta hiểu. Không phải ai sai ai đúng, mà đơn giản là khác biệt”. 
Ông giải thích thêm: “Thường thì khi các NGO nước ngoài vào Việt Nam, 
việc đầu tiên người ta nhắm tới bao giờ cũng là nâng cao chất lượng cuộc 
sống và những gì họ cho là thiết thực nhất, ví dụ xóa đói giảm nghèo ở nông 
thôn, bảo vệ động vật hoang dã ở rừng núi. 
Còn nâng cao văn minh đô thị lại là một bước khác, cao hơn. Marketing xã 
hội như ở ta bây giờ mới chỉ dừng lại ở mức độ chống dốt mà thôi, chưa tới 
tầm cổ vũ cho một cuộc sống văn minh”. 
Ta thì chưa hiểu chính mình… 
Còn các chương trình marketing xã hội do các cơ quan chính phủ trực tiếp 
thực hiện, thì cách thức thực hiện thường nặng về tuyên truyền, khô cứng, 
nhàm chán và cổ lỗ. Các băng rôn, tranh cổ động là một ví dụ cho sự cổ lỗ 
đó. 
Nhưng nhược điểm lớn nhất của các chương trình này là không xác định 
được cách làm phù hợp với từng nhóm đối tượng. 
Người dân phường Hàng Đào (Hà Nội) cứ giờ tan tầm là lại phải đón nhận 
đoạn nhạc “điều đó phụ thuộc hành động của bạn, chỉ phụ thuộc bạn mà 
thôi” ra rả trên mạng lưới loa đường phố. Bản nhạc cổ động này đã được sản 
xuất từ cách đây cả chục năm nhưng bây giờ vẫn tiếp tục vang vang trên loa 
phóng thanh mỗi chiều tại khu phố trung tâm thủ đô. 
“Hệt như tra tấn bằng âm thanh” - chị Dung, một người bán hàng quần áo 
trên phố Hàng Đào, cằn nhằn - “Chiều nào cũng mấy câu hát cũ rích ấy. 
Nhưng nghe lâu thì cũng phải quen, thôi kệ”. Thật ra, cái sự “kệ” của chị 
Dung cho thấy một điều nguy hiểm hơn, là thái độ chán và coi thường thông 
điệp bảo vệ môi trường được truyền tải qua một chương trình truyền thông 
xã hội. 
“Hệ thống loa có thể phát huy tác dụng rất tốt ở nông thôn, để thông báo lịch 
gieo cấy, ngày thả cá giống, hay tình hình an ni