Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cảcác lĩnh vực tựnhiên xã hội, và
tưduy của con người. Trong hoạt động kinh tếthì mâu thuẫn cũng mang tính phổ
biến,chẳng hạn nhưcung và cầu, tích luỹvà tiêu dùng, tính chất kếhoạch hoá của
từng xó nghiệp, công ty với tính tựphát vô chính phủcủa nền sản xuất hàng hoá,
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệsản xuất. Mâu thuẫn từkhi sựvật
xuất hiện cho đến khi sựvật kết thúc. Trong mỗi sựvật, mâu thuẫn hình thành
không phải chỉcó một mà có thểcó nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại hình thành.
Trong sựnghiệp đổi mới đất nước ta do Đảng lãnh đạo đã giành được nhiều
thắng lợi và bước đầu mang tính chất quyết định, quan trọng trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tếquan liêu bao cấp sang nền kinh tếthịtrường có sựquản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủnghĩa. Trong những chuyển biến đó ta đã đạt
được nhiều thành công nhưng cũng không ít những mâu thuẫn làm kìm hãm sự
phát triển của công cuộc đổi mới.
23 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mâu thuẩn biện chứng trong nên kinh tê thị nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Mâu thuẩn biện chứng
trong nên kinh tê thị nước ta hiện nay”
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên xã hội, và
tư duy của con người. Trong hoạt động kinh tế thì mâu thuẫn cũng mang tính phổ
biến,chẳng hạn như cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính chất kế hoạch hoá của
từng xó nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá,
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn từ khi sự vật
xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành
không phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại hình thành.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước ta do Đảng lãnh đạo đã giành được nhiều
thắng lợi và bước đầu mang tính chất quyết định, quan trọng trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó ta đã đạt
được nhiều thành công nhưng cũng không ít những mâu thuẫn làm kìm hãm sự
phát triển của công cuộc đổi mới. Vì vậy phải có những biện pháp giải quyết để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Với những ham muốn tìm hiểu thêm về nền kinh tế
của đất nước ta cũng như những bức xúc và những vấn đề cần giải quyết trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tôi chọn “Mâu thuẫn biện chứng
trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” hay cũng chính là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm đề tài cho bài tiểu luận này.
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Quy luật mâu thuẫn trong phép biện chứng duy vật
1.1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến
Tất cả các sự vật hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong
nó những mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự
thân vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại không
phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu tự nhiên nào, kể cả ý chí của con người.
Mỗi một sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành
bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập
nhau. Sự liên hệ tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn
nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi qúa trình vận độngvà phát triển khách
quan của chính bản thân các sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên hiện
đại chứng minh rằng thế giới vi môlà sự thống nhất giữa những thực thể có điện
tích trái dấu, giữa hạt và trường hạt và phản hạt. Xã hội loài người có những mâu
thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất,
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa các giai cấp đối kháng như chủ nô và
nô lệ, nông dân và địa chủ, tư sản và vô sản. Hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng
mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế
hoạch hoá của từng xí nghiệp, công ty với tính tự phát vô chính phủ của nền sản
xuất hàng hoá Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân
lý và sai lầm.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi sự vật kết thúc. Trong
mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có nhiều mâu thuẫn,
vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác lại hình thành. Ănghen chỉ ra rằng chính sự vận động đơn giản
nhất của vật chất cũng là một mâu thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
hơn, mâu thuẫn thể hiện càng rõ nét hơn. Nó gắn liền với sự vật, xuyên suốt qúa
trình phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật. Đó chính là những thuộc tính
quy định tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn.
1.2. Sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập
a. Thế nào là mặt đối lập
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát
những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng, phát triển ngược chiều nhau
tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng tạo nên sự vật hiện tượng đn ví dụ tích luỹ
và tiêu dùng trong kinh tế.Do đó cần phân biệt rằng không phải bất kỳ hai mặt đối
lập nào cũng tạo nên mâu thuẫn.Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới
khách quan không phải chỉ tồn tại trong nó hai mặt đối lập. Trong cùng một thời
điểm, ở mỗi một sự vật có thể tồn tại nhiều mặt đỗi lập, chỉ có những mặt đối lập
nào tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh
hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hoá lẫn nhau thì
hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ,
trong một nền sản xuất xã hội xuất hiện hàng loạt các hướng phát triển ngược chiều
nhau như cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng v.v
b. Sự thống nhất của các mặt đối lập
“Thống nhất” của các mặt đối lập được hiểu với nghĩa không phải chúng
đứng bên cạnh nhau mà là nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng nhưng
liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt tồn tại
kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai
mặt chính tạo thành sự vật thì nhất định sẽ không có sự tồn tại của sự vật.Bởi vậy
sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại
của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào.
Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng của bản thân sự vật tạo nên.
Ví dụ, trong kinh tế :giữa hai mặt tích luỹ và tiêu dùng đối lập thống nhất với nhau
trong nền sản xuất. Không có tích luỹ thì không thực hiện được quá trình tái sản
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
xuất mở rộng và như vậy sẽ không có điều kiện để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
ngày càng cao. Ngược lại nếu không đảm bảo thoả mãn về nhu cầu tiêu dùng thì
cũng không đẩy mạnh sản xuất phát triển. Không đẩy mạnh sản xuất phát triển thì
cũng không có tích luỹ.
Tất nhiên khái niệm “thống nhất” này cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi.
Bản thân nội dung khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó :thống nhất của
cái đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đưng trong nó sự đối lập.
“Khái niệm sự thống nhất của các mặt đối lập” còn được dùng cùng một
nghĩa với khái niệm “sự đồng nhất” của các mặt đối lập. Vì vậy trong quy luật mâu
thuẫn, đồng nhất và thống nhất được hiểu là đồng nghĩa với nhau. Lênin viết : “Sự
đồng nhất của các mặt đối lập ( “thống nhất” của chúng, nói như vậy có lẽ đúng
hơn ?. Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ đồng nhất và thống nhất không quan
trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó cả hai đều đúng ), đó là sự thừa nhận ( sự tìm ra
) những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau, đối lập trong tất cả các hiện
tượng và qúa trình của giới tự nhiên ( kể cả tinh thần và xã hội )”.
Tuy nhiên trong những quan hệ xác định, khái niệm đồng nhất và thống nhất
không hoàn toàn đồng nghĩa với nhau. Đó là trong trường hợp mà mặt đối lập
chuyển hoá lẫn nhau. Lênin viết : “ Phép biện chứng là học thuyết vạch ra những
mắt đối lập làm thế nào là có thể và thường là ( trở thành ) đồng nhất trong những
điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách chuyển hoá lẫn nhau, tại sao lý trí con
người không nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng đờ, mà là sinh động, có
điều kiện năng động, chuyển hoá lẫn nhau”. Như vậy mỗi sự vật vừa là bản thân
nó, vừa là cái khác với bản thân nó. Trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau,
không có cái gì đồng nhất thuần tuý không có đối lập không chuyển hoá.
c, Đấu tranh của các mặt đối lập
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự
đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự
vật, thống nhất như một chính thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà đấu
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
tranh chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu
tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách
quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ : trong các phương thức sản xuất có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm, nó diễn ra
rất gay gắt và quyết liệt. Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội, bằng rất nhiều
hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia ra làm nhiều giai đoạn. Thông
thường khi mới xuất hiện hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ ràng sự xung khắc gay
gắt. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi la mâu thuẫn. Chỉ
có những mặt khác nhau tồn tại trong cùng một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với
nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển
thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập
của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành đối lập. Sự
vật cũ mất đi, sự vật mới được hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết, sự
vật mới hơn xuất hiện. Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm sự vật biến
đổi không ngừng từ thấp đến cao. Chính vì vậy, Lênin khẳng định sự phát triển là
một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập.
Khi bàn về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập,
Lênin chỉ ra rằng : mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa
là chính nó – nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được
các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự
thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt mới là tuyệt đối.
Nó diễn ra thường xuyên liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong
trạng thái ổn định của sự vật, cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết : “
sự thống nhất phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau của các mặt đối lập là có
điều kiện tạm thời, thoáng qua trong tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập
bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận động tuyệt đối”.
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
1.3. Sự chuyển hoá của các mặt đối lập
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự
chuyển hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một
trình độ nhất định hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến sự chuyển hoá bài trừ
và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường
diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết
phải diễn ra thông qua hoạt động ý thức của con ngươì. Không nên hiểu sự chuyển
hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy
móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
+ Một là : mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ
cao hơn xét về phương diện chất của sự vật
Ví dụ : lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu
tranh và chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới – quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+ Hai là : cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối
lập mới hoàn toàn.
Ví dụ : nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập chung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tóm lại, trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa
đựng trong bản thân nó những mặt những thuộc tính có khuynh hướng phát triển
ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong điều kiện cụ
thể tạo thành mâu thuẫn.Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến của thế
giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật
mới lại làm nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu
tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vây
mà các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của một quá trình
phát triển.
2. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
2.1. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường
Nước ta đã, đang và sẽ tiếp bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Sự đổi
mới này là một tất yếu của lịch sử. Nó dẫn đến những mục tiêu rất cụ thể và mang
tính cách mạng. Sự đổi mới này làm thay đổi hàng loạt các vấn đề về lý luận, thực
tiễn trong việc phát triển kinh tế. Thực tiễn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện
hoàn cảnh mới đồng thời cũng là mục tiêu của kinh tế thị trường. Mục đích của
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân, kích thích sản xuất, phát huy tính năng động sáng tạo, thúc
đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng đồng thời nền kinh tế thị trường cũng
như nền kinh tế tập chung không phải là đặc tính đặc thù cố hữu của một chế độ
kinh tế, xã hội nào cả. Muốn đạt được hiệu quả cao trong kinh tế thì mỗi nước, mỗi
chế độ xã hội phải dựa vào điều kiện hoàn cảnh, đặc điểm tự nhiên của mình để
phát triển kinh tế.
Trước thời kỳ đổi mới, trong quan điểm về chủ nghĩa xã hội người ta hiểu
kinh tế thị trường chỉ là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản, còn trong chủ nghĩa xã hội
thì sẽ không còn kinh tế thị trường. Thời gian đầu của qúa trình đổi mới, tuy chúng
ta đã hiểu rằng kinh tế thị trường là điều không thể tránh khỏi trong qúa trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng vẫn còn thái độ hoài nghi, chưa tin tưởng vào khả
năng dung hợp kinh tế thị trường với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn đổi mới kinh tế –xã hội ở một số nước theo hướng phát triển kinh
tế thị trường đã chứng tỏ rằng nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng không phải
là tàn dư cuả chủ nghĩa tư bản, cũng không phải là cái chúng ta bị bắt buộc, phải
miễn cưỡng chấp nhận. Nó cũng không phải là “ bước quá độ” trong qúa trình đi
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và sẽ được vượt qua khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi.
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế và nền
văn minh nhân loại, là trình độ trình độ phát triển cao hơn của nền kinh tế nhân loại
sau kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Có quan niệm như vậy mới thấy được rằng,
bản chất thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới không phải là sự xoá bỏ nền kinh tế thị trường nói chung, mà là sự quá độ
từ nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, ngoài những nét chung với nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa như : một nền sản xuất hàng hoá với sự liên kết và trao
đổi trên quy mô rộng lớn ở phạm vi quốc gia và quốc tế, với sự phát huy đầy đủ
những quy luật : quy luật giá trị, quy luật cung cầu kinh tế thị trường còn có
những đặc trưng riêng :
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì trái lại nền kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa tuy cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần nhưng nó dựa trên chế độ sở
hữu về tư liệu sản xuất, tức là sự làm chủ của người lao động đối với những tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội.
Nếu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lấy phân phối theo tư liệu sản xuất và theo
vốn là hình thức phân phối chủ yếu thì trong èn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
quy luật phân phối theo lao động mới có điều kiện phát huy một cách đầy đủ.
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển theo hướng bất bình
đẳng xã hội ngày càng sâu sắc hơn, thì kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát
triển theo hướng ngày càng khắc phục tình trạng phân cực một cách bất hợp lý của
xã hội do nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tạo ra.
Nếu nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên sự khai thác của các
quốc gia, các khu vực phát triển đối với tài nguyên và lao động của các vùng, các
nước kém phát triển, thì nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên sự hợp tác
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
và trao đổi một cách bình đẳng và cùng có lợi giữa các vùng dân cư trong nước và
giữa các dân tộc, các quốc gia trên thế giới.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến
do đó nền kinh tế mà chúng ta xây dựng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa, mà là một nền kinh tế quá độ : nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tức là một nền kinh tế thị trường tuy còn chưa thoát khỏi những đặc
điểm của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nhưng bước đầu đã mang yếu tố xã
hội chủ nghĩa và những yếu tố này ngày càng lớn mạnh lên thay thế dần những yếu
tố tư bản chủ nghĩa.
2.2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan
Nước ta đang trên con đương phát triển kinh tế. Một nền kinh tế đa dạng và
phong phú cả về quy mô và cách thức tổ chức, nền kinh tế thị trường đáp ứng được
một phần nào những thách thức đó. Hơn nữa nó là một công cụ, phương thức để
nước ta đi tới mụa tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhìn lại nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp mọi hoạt động kinh tế -xã
hội đều được triển khai trong cấp độ quốc gia. Thời kỳ này tính bao cấp của nhà
nước đối với các hoạt động kinh tế như sản xuất, lưu thông vv còn khá nặng nề
và bức xúc. Lợi ích kinh tế của người lao động –lực lượng sản xuất chính trong xã
hội chưa được quan tâm đúng mức,thu nhập còn thấp. Vì thế sự vận động của nền
kinh tế thời kỳ này là chậm chạp, kém năng động và ít tính sáng tạo cao.
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là bước đi đúng đắn của đảng và nhà
nước ta. Theo bước đi của kinh tế thị trường ta đã mạnh dạn chuyển đổi sang nền
kinh tế nhiều thành phần sử dụng các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, cung cầu vv trên
thị trường như một công cụ phương tiện trong kinh tế. Hơn nữa nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần khẳng định sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã
hội mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiêt cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng.
Đồng thời nền kinh tế thị trường là cánh cửa mở rộng để ta tiếp xúc với bên ngoài
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
để có những bài học lớn về kinh tế. Vì vậy chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
là tất yếu và khách quan.
Kể từ đại hội Đảng lần thứ VI họp vào tháng 12/1986 đến nay, theo đường
lối đổi mới, đát nước ta đã từng bước chuyển dần sang nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa, và điều đó có nghĩa là chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng,
những thành tựu đó cho phép chúng ta “ điều chỉnh và bổ xung nhận thức, làm cho
quan niệm về chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể, đường lối, chủ trương chính sách
ngày càng đồng bộ có căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu trong qúa
trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là một thành công lớn đối với sự
nghiệp phát triển của đất nước.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế hàng hoá đa thành phần. Việc phát triển
mỗi thành phần của nền kinh tế đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế
đồng thời cũng có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế tự khẳng định khả năng và
vai trò của mình trong thị trường.
Tuy nhiên nhận ra được sức mạnh của nền kinh tế thị trường bao nhiêu thì
chúng ta lại cũng hiểu rõ bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động và phát
triển của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là mục tiêu của phát
triển xã hội, nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng
tăng trưởng kinh tế cũng phải gắn liền với tiến độ phát triển xã hội. Một xã hội phát