Mô cơ (mô nâng đỡ) thực vật

Mô cơ là tập hợp những tế bào thích nghi với chức năng cơ học giúp cho câyđứng vững chống lại các tác động cơ học: sức gió, bão, sức nén của tán cây. Mô cơ đặc biệt phát triển mạnh ở những cây mọc ngoài sáng và những cây gỗ.

pdf10 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3366 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô cơ (mô nâng đỡ) thực vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mô cơ (mô nâng đỡ) thực vật Mô cơ là tập hợp những tế bào thích nghi với chức năng cơ học giúp cho cây đứng vững chống lại các tác động cơ học: sức gió, bão, sức nén của tán cây... Mô cơ đặc biệt phát triển mạnh ở những cây mọc ngoài sáng và những cây gỗ. Những cây sống dưới nước hoặc môi trường đất ẩm, sống trong bóng râm thì mô cơ kém phát triển (trong những điều kiện ấy nhờ sức căng của tế bào đã đảm bảo độ bền vững cơ học của cây). Các tế bào của mô cơ thường có màng dày, nhưng ở các mức độ khác nhau, căn cứ vào đặc điểm đó, người ta chia mô cơ thành 3 loại: mô dày (hậu mô), mô cứng (cương mô) và tế bào đá (thạch bào). 3.1. Mô dày (hậu mô) Hình 2.4. Cấu tạo lớp bần và lỗ vỏ 1. Biểu bì; 2. Lớp bần; 3. Tầng phát sinh bần - lục bì; 4. Lục bì; 5. Tế bào bổ sung; 6. Nhu mô vỏ sơp cấp; 7. Mô dày; 8. Nội bì; 9. Mô cứng ở trụ bì; 10. Nhu mô vỏ thứ cấp. (Nguồn: N.X. Kixeleva, N.X. Xelukhi, 1969) 38 Mô dày gồm những tế bào sống, có màng sơ cấp dày nhưng không hoá gỗ (vẫn bằng xenlulose), thường chứa lạp lục. Khi quan sát trên lát cắt ngang, các tế bào mô dày thường có dạng đa giác 4,5 cạnh nhưng trên lát cắt dọc, các tế bào thường có dạng sợi, 2 đầu nhọn, kéo dài theo trục của các cơ quan dài từ 2 - 3mm. Mô dày thường gặp ở các cơ quan non đang phát triển của cây, hoặc ở các cây thân cỏ đã trưởng thành, đôi khi có ở vỏ rễ của cây 2 lá mầm và ít gặp ở cây thực vật 1 lá mầm. Ở trong cây, các tế bào của mô dày thường xếp thành một vòng liên tục, hay xếp thành từng dải, từng đám riêng xung quanh các cơ quan, chúng thường nằm ngay dưới biểu bì hoặc nằm cách tế bào biểu bì vài lớp tế bào mô mềm hoặc nằm ở chỗ gờ nổi lên ở trong thân (Húng quế, Thược dược) hay cuống lá (Cà rốt) hoặc ở 2 bên gân lá hay mép lá. Ngoài ra, mô dày còn có thể có ở các bó dẫn, phía trong gỗ hoặc bao xung quanh bó dẫn. Chức năng chủ yếu của mô dày là nâng đỡ các cơ quan còn non của cây, các tế bào của mô dày thường có độ bền vững khá cao, chịu được khoảng 10 - 12Kg/mm2 sức nén cơ học, ngoài ra hậu mô có thể tham gia 1 phần quá trình quanh hợp của cơ thể. Căn cứ vào chỗ dày lên của vách tế bào, người ta phân biệt các loại hậu mô sau đây: a. Hậu mô góc (mô dày góc) Chỗ dày của vách tế bào nằm ở góc của tế bào. Màng dày của 3 - 4 tế bào liền nhau giúp cho mô có tính đàn hồi và mềm dẻo khi va chạm cơ học, loại mô này thường gặp ở vỏ sơ cấp của nhiều thân cây: Bí ngô, Cỏ hôi, Thược dược... Có thể nằm trong cuống lá: Rau cần, Cà rốt... Hình 2.5. Một số loại mô dày A. Mô dày góc (Hoya carnosa) B. Mô dày phiến (Helianthus annuus); C. Mô dày xốp (Rheum sp.) (Nguồn: N.X. Kixeleva, N.X. Xelukhi, 1969) b. Hậu mô phiến (mô dày phiến) Màng của tế bào dày lên theo vách tiếp tuyến phía trong và phía ngoài của tế bào. Mô dày phiến thường gặp ở các cây Sen cạn (Tropaeolum majus), Rau má, Dâu tây (Fragaria)... c. Hậu mô xốp (mô dày xốp) Trong hậu mô xốp các gian bào phát triển mạnh tạo thành một hệ thống gian bào, màng của các tế bào chỉ dày lên ở những chỗ tiếp giáp với gian bào. Loại mô này thường có trong thân của: Rau diếp, Su hào, Rau muối (Chenopodium). Tuy nhiên, giữa 3 loại mô dày trên không có một ranh giới rõ ràng mà thường gặp nhiều dạng chuyển tiếp. Do đó trên cùng một cây có thể biểu hiện nhiều loại mô dày khác nhau, trong đó có một loại 39 mô biểu hiện rõ nhất. Ví dụ: trong cây Sung, cây Trạng nguyên- có mô dày góc và mô dày phiến biểu hiện rõ nhất. 3.2. Mô cứng (cương mô) Mô cứng là những tế bào chết, có dạng hình thoi dài, thường nhọn 2 đầu, các tế bào sắp xếp sít nhau, màng thứ cấp của những tế bào này hoá gỗ rất dày làm cho xoang tế bào thu hẹp lại, chỉ còn 1 khe nhỏ không chứa chất sống ở bên trong. Các tế bào cương mô thường có mặt ở khắp nơi trong cơ thể thức vật: Thường gặp ngay từ khi cây còn non ở thực vật 1 lá mầm và khi cây trưởng thành ở thực vật 2 lá mầm. Căn cứ vào vị trí của mô cứng ở trong cây, người ta phân biệt mô cứng thành các nhóm sau đây: - Sợi bọc: mô cứng có mặt ở phần vỏ sơ cấp của rễ và thân cây. - Sợi libe (sợi vỏ): các tế bào mô cứng nằm trong phần libe của mô dẫn, các tế bào của sợi libe thường có dạng sợi dài từ 2mm - 400mm và có đường kính vào khoảng và chục m. Các sợi libe thường xếp xoắn vào nhau tạo thành các bó sợi (cấu tạo xoắn làm tăng tính bền vững cơ học). Tập hợp các bó sợi đó tạo thành libe cứng. Người ta phân biệt: sợi libe sơ cấp và sợi libe thứ cấp. Sợi libe sơ cấp có nguồn gốc từ tầng trước phát sinh, màng bằng cellulose; sợi libe thứ cấp có nguồn gốc từ tầng phát sinh trụ, vách tế bào hoá gỗ nhiều. - Sợi gỗ: nằm trong phần gỗ của cây, các sợi gỗ thường ngắn hơn sợi libe (tế bào thường chỉ dài 2mm). Tế bào sợi gỗ thường có dạng hình thoi dài, đầu vát nhọn, vách tế bào thường hoá gỗ. 3.3. Tế bào đá (Thạch bào): Tế bào đá thường là những tế bào chết, màng hoá gỗ rất dày và cứng làm cho xoang tế bào thu hẹp lại đôi khi chỉ còn một lỗ hay 1 khe hẹp không chứa nổi chất sống ở bên trong, vách tế bào của tế bào đá cấu tạo thành từng lớp bên trên có nhiều lỗ nhỏ. Tế bào đá thường có trong hạt, quả, lá, thân và thường nằm lẫn trong khối mô mềm, mô đồng hoá, trong vỏ sơ cấp hay trong ruột của thân và rễ. Thông thường, tế bào đá là những tế bào riêng biệt, đôi khi họp thành nhóm hay lớp dày. Tế bào đá có hình dạng rất đa dạng: dạng phân nhánh hình sao (cuống lá Sung, lá Trang...), dạng phân nhánh dài (Lá Chè, lá Sú...), dạng sợi dài (vỏ hạt Đậu...). Về nguồn gốc tế bào đá có thể được hình thành từ mô phân sinh, mô mềm cơ bản hay mô xốp... 40
Tài liệu liên quan