Tóm tắt: Quỹ tín thác hay quỹ quyên tặng xuất hiện đầu tiên từ đế chế La Mã nhưng chỉ thực sự
thành công khi các trường đại học của Hoa Kỳ xây dựng và phát triển nó với tư duy quản trị tiên
tiến. Quỹ tín thác tạo ra sự ổn định về nguồn thu và đòn bẩy cho các nguồn thu khác đáp ứng những
mục tiêu dài hạn của tổ chức. Nghiên cứu hai mô hình tiêu biểu về quỹ tín thác tại Hoa Kỳ và đánh
giá những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng vào các trường đại học ở Việt Nam. Bài viết cũng đề
xuất các giải pháp nhằm triển khai mô hình quỹ tín thác tại các trường đại học của Việt Nam
20 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô hình quỹ tín thác trường đại học Hoa Kỳ và khả năng áp dụng tại các trường đại học Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 48-67
48
Review Article
University Endowment Funds in the United States
and the Application in Vietnam
Le Thi Thu Ha, Ho Nhat Le
Foreign Trade University, 91 Chua Lang, Hanoi, Vietnam
Received 16 September 2020
Revised 29 October 2020; Accepted 30 October 2020
Abstract: Endowment funds or charitable gifts first appeared back in the period of Roman Empire,
yet have become a real success only since universities in the United States established and developed
them with a progressive management mindset. Endowment funds assure income stability and
leverage new sources of revenue. The present research sheds light on the two popular models of
university endowment funds in the United States taking into account the advantages and
disadvantages of university endowment establishment in Vietnam. Also, suggestions for the
application in Vietnam are provided.
Keywords: Endowment fund, university education.
________
Corresponding author.
Email address: ha.le@ftu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4268
L.T.T. Ha, H.N. Le / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 48-67 49
Mô hình quỹ tín thác trường đại học Hoa Kỳ
và khả năng áp dụng tại các trường đại học Việt Nam
Lê Thị Thu Hà, Hồ Nhật Lệ
Trường Đại học Ngoại thương, 91 Chùa Láng, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 16 tháng 9 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 29 tháng 10 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 10 năm 2020
Tóm tắt: Quỹ tín thác hay quỹ quyên tặng xuất hiện đầu tiên từ đế chế La Mã nhưng chỉ thực sự
thành công khi các trường đại học của Hoa Kỳ xây dựng và phát triển nó với tư duy quản trị tiên
tiến. Quỹ tín thác tạo ra sự ổn định về nguồn thu và đòn bẩy cho các nguồn thu khác đáp ứng những
mục tiêu dài hạn của tổ chức. Nghiên cứu hai mô hình tiêu biểu về quỹ tín thác tại Hoa Kỳ và đánh
giá những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng vào các trường đại học ở Việt Nam. Bài viết cũng đề
xuất các giải pháp nhằm triển khai mô hình quỹ tín thác tại các trường đại học của Việt Nam
Từ khóa: Quỹ tín thác, giáo dục đại học.
1. Mở đầu
Quỹ tín thác trường đại học (university
endowment) xuất hiện ở Anh từ khoảng thế kỷ
XV đến thế kỷ XVI [1] và thực sự được phát
triển, hoàn thiện trong các cơ sở giáo dục bậc cao
tại Hoa Kỳ [2]. Nhiều tổ chức phi lợi nhuận khác
ở Hoa Kỳ cũng đã triển khai và duy trì các quỹ
tín thác, điển hình là các nhà thờ, bệnh viện, bảo
tàng, trường trung học tư thục và các nhóm văn
hóa và nghệ thuật biểu diễn [3]. Tuy nhiên, thành
công nhất vẫn là mô hình quỹ tín thác của các
trường đại học, đặc biệt là các trường thuộc khối
Ivy League như Harvard, Yale hay Stanford và
đã dẫn đầu trong lĩnh vực đầu tư đa tài sản trong
hơn hai thập kỷ với giá trị lên đến hàng chục tỷ
USD [4]. Nguồn lợi nhuận thu được từ hoạt động
đầu tư của các quỹ tín thác đang dần trở thành
nguồn tài chính trọng yếu cho sự vận hành của
các trường đại học [5]. Thành công trong cách
thức xây dựng, huy động, quản lý, đầu tư và chi
tiêu của các quỹ tín thác trường đại học Hoa Kỳ
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: ha.le@ftu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4268
không chỉ thu hút sự quan tâm của các tổ chức
phi lợi nhuận, các mô hình giáo dục tự chủ mà
còn nhận được nhiều sự chú ý từ các định chế
đầu tư tài chính [6].
Tại Việt Nam, tự chủ trong giáo dục, đặc
biệt là trong giáo dục bậc cao đang được đẩy
mạnh. Ý tưởng về việc xây dựng mô hình đại học
tự chủ đã được Thủ Tướng Chính phủ nêu ra
trong Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg vào
2003: “Trường đại học được quyền tự chủ và
tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật
về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà trường, tổ
chức các hoạt động đào tạo, khoa học, công
nghệ, tài chính, quan hệ quốc tế, tổ chức và nhân
sự”. Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của Chính Phủ
ban hành “Về việc đổi mới cơ bản và toàn diện
giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 -
2020” một lần nữa nhấn mạnh việc đổi mới cơ
chế quản lý này. Theo đó, các cơ sở giáo dục đại
học công lập sẽ chuyển sang hoạt động theo cơ
chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết
L.T.T. Ha, H.N. Le / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 48-67 50
định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu,
tổ chức, nhân sự và tài chính. Điều này cũng
được khẳng định trong Luật giáo dục đại học
năm 2012. Tuy nhiên, dù đã có được một hành
lang pháp lý tương đối hoàn thiện và rõ ràng cho
quyền tự chủ ở bậc đại học, việc thay đổi mô hình
quản lý bộ máy tài chính, nhân sự và tuyển sinh
ở các trường đại học tại Việt Nam vẫn diễn ra
khá chậm chạp, nhất là trong vấn đề tự chủ
tài chính.
Quỹ tín thác trường đại học liệu có thể trở
thành một hướng đi giúp các cơ sở giáo dục bậc
cao tại Việt Nam đạt được thế chủ động trong
quá trình xây dựng, quản lý, phân bổ nguồn tài
chính của mình không ? Nghiên cứu Mô hình quỹ
tín thác trường đại học Hoa Kỳ và khả năng áp
dụng tại các trường đại học Việt Nam phần nào
giải đáp cho câu hỏi trên.
2. Khái niệm
Quỹ tín thác hay còn gọi là quỹ quyên tặng
là các quỹ được tích lũy bởi các tổ chức để hỗ
trợ, tài trợ cho các hoạt động của chính tổ chức
đó [1]. Quỹ tín thác còn được sử dụng phổ biến
trong các tổ chức phi lợi nhuận như bệnh viện,
bảo tàng, thư viện, và cả các trường cao đẳng và
đại học [3]. Về mặt pháp lý, quỹ tín thác có thể
được xây dựng như một bộ phận của một trường
đại học, hoặc là một đơn vị riêng biệt của các tổ
chức phi lợi nhuận [1].
Trong khuôn khổ giáo dục đại học, các
khoản tài trợ là một nguồn thu được các trường
cao đẳng hoặc đại học sử dụng để đầu tư và hỗ
trợ sứ mệnh giáo dục lâu dài của chính các
trường đó [7]. Quỹ tín thác bao gồm hàng trăm
hoặc hàng ngàn khoản tài trợ cá nhân, cho phép
các nhà tài trợ đầu tư các nguồn tài chính cá
nhân, riêng lẻ cho các mục đích công với sự đảm
bảo rằng tài trợ của họ sẽ phục vụ các mục đích
dài lâu của tổ chức trong điều kiện tồn tại vĩnh
viễn. Quỹ tín thác trường đại học cho phép hiện
thực hóa các cam kết trong tương lai vì nó tạo ra
các nguồn lực để đáp ứng những yêu cầu sẵn có
ở hiện tại [8].
Quỹ tín thác là một tổ chức đầu tư được điều
chỉnh trong nhiều bộ luật của các quốc gia phát
triển, trong đó điển hình là Luật thuế thu nhập
của Hoa Kỳ (Income Tax Act § 149.1(2)(b)).
Đến nửa sau của thế kỷ XX, khi hoạt động của
các quỹ tín thác trường đại học Hoa Kỳ trở nên
phổ biến, nhiều nghiên cứu về mô hình, cách
thức gây quỹ và hiệu quả tài chính của quỹ tín
thác trường đại học được tiến hành với mục tiêu
tạo ra một dòng thu nhập thực tế dự kiến dài hạn.
Cách thức tài trợ giáo dục này trở thành một tiêu
điểm trong cả lĩnh vực giáo dục và đầu tư.
3. Vai trò của quỹ tín thác
Bàn về mô hình quỹ tín thác trường đại học,
Hansmann (1990) [1] đã đề cập đến những lợi
ích của mô hình quỹ tín thác trường đại học,
trong đó nhấn mạnh tính hiệu quả, tầm quan
trọng của việc triển khai cũng như các dạng thức
đầu tư để đạt lợi nhuận tối đa. Tiếp đó, Merton
(1993) [8] đã dành một chương để phân tích và
bàn luận về các chiến lược đầu tư tối ưu cho quỹ
tín thác trường đại học. Bằng việc xây dựng các
hàm tuyến tính với các biến số là các hoạt động
của trường đại học như giáo dục, đào tạo, đầu tư
và nghiên cứu cùng các tiêu chí xếp loại trường
như số lượng sinh viên và tổng giá trị quỹ tín
thác, Merton (1993) [8] đã rút ra những ảnh
hưởng của nguồn lực tài chính của bản thân ngôi
trường và việc sử dụng tài sản thay thế lên mức
độ thành công của các quỹ tín thác trường đại
học Hoa Kỳ. Gần đây hơn, Fishman (2014) [9]
đã xem xét khuôn khổ pháp lý cho mô hình đầu
tư quỹ tín thác trường đại học, chính sách đầu tư
tài trợ, sự phát triển của chúng đối với các điều
kiện phức tạp hơn và rủi ro hơn.
Nhìn chung, các nghiên cứu đều ghi nhận
quỹ tín thác phục vụ các tổ chức và cộng đồng
bằng cách:
i) Tạo ra sự ổn định về nguồn thu
Doanh thu của trường cao đẳng và đại học
dao động theo thời gian với những thay đổi trong
học phí, số tiền tài trợ và hỗ trợ công cộng. Đối
với quỹ tín thác, số tiền gốc luôn được bảo lưu
và chỉ tiền lãi được ưu tiên sử dụng cho giáo dục
L.T.T. Ha, H.N. Le / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 48-67 51
vì vậy tạo ra nguồn thu ổn định để cho cho hỗ trợ
sinh viên, giảng viên, chương trình học tập sáng
tạo, nghiên cứu y tế và thư viện.
ii) Tạo đòn bẩy cho các nguồn thu khác
Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế
đang trong tình trạng bất ổn, các cơ sở giáo dục
phải tăng đáng kể chi tiêu hỗ trợ cho sinh viên.
Trong bối cảnh đó, các trường đại học, cao đẳng
sở hữu các quỹ tín thác giá trị lớn nhất cũng là
những trường có nhiều khả năng tiếp nhận sinh
viên mà không cần quá quan tâm đến khả năng
tài chính, mà còn cung cấp các gói hỗ trợ tài
chính cho sinh viên. Khoản hỗ trợ cũng cho phép
trường cao đẳng hoặc đại học nâng cao chất
lượng dịch vụ đào tạo và với mức chi phí thấp
hơn tương đối. Điều này đặc biệt quan trọng đối
với các tổ chức công đã cắt giảm hỗ trợ từ ngân
sách của nhà nước. Nếu không có các nguồn tài
chính khác bù lại, nhiều tổ chức sẽ phải cắt giảm
các chương trình hoạt động của mình, thậm chí
là tăng mức học phí lên gấp nhiều lần so với dịch
vụ đào tạo, đẩy gánh nặng tài chính lên vai của
các bậc phụ huynh và các sinh viên.
iii) Khuyến khích đổi mới và tăng tính linh
hoạt
Một khoản hỗ trợ trong khuôn khổ quỹ tín
thác cho phép giảng viên và sinh viên tiến hành
nghiên cứu sáng tạo, khám phá các lĩnh vực học
thuật mới, áp dụng các công nghệ mới và phát
triển các phương pháp giảng dạy mới ngay cả khi
sự tài trợ không có sẵn từ các nguồn khác, bao
gồm học phí, quà tặng, hoặc trợ cấp. Sự đổi mới
và linh hoạt như vậy dẫn đến những thành tựu
hoàn toàn mới các chương trình và những khám
phá quan trọng trong khoa học, y học, giáo dục
và các lĩnh vực khác.
iv) Cho phép đáp ứng những mục tiêu dài
hạn
Không giống như những món quà được sử
dụng khi nhận, quỹ tín thác mang giá trị thời
gian. Về lâu dài, chúng không chỉ đem lại lợi
nhuận qua hoạt đồng đầu tư, tài trợ, mà quỹ tín
thác còn thể hiện danh tiếng, sự gắn kết trong
cộng đồng cựu sinh viên, giảng viên. Các cơ sở
giáo dục có thể có kế hoạch chiến lược để sử
dụng một nguồn thu nhập đáng tin cậy hơn để
tăng cường và nâng cao chất lượng của các
chương trình của họ, thậm chí có những kế hoạch
trong vòng nhiều năm được triển khai. Ví dụ
chiến dịch Harvard để kêu gọi vốn cho quỹ tín
thác đại học Harvard diễn ra trong vòng 5 năm
liên tục và đạt được số tiền tài trợ rất lớn. Bằng
cách đóng góp vào quỹ tín thác, cựu sinh viên và
những người quyên tặng đã thực hiện trách
nhiệm đảm bảo phát triển bền vững cho các
trường cao đẳng và đại học; phần góp giúp cho
các thế hệ sinh viên tương lai được hưởng lợi
một nền giáo dục chất lượng cao hơn và cho phép
các tổ chức này đóng góp nhiều hơn cho lợi ích
công cộng.
Mô hình quỹ tín thác trường đại học như một
đơn vị độc lập
Mô hình quỹ tín thác trường đại học dưới sự quản lý
của nhà trường
Hình 1. So sánh hai mô hình quỹ tín thác trường đại học phổ biến tại Hoa Kỳ.
Nguồn: Nhóm nghiên cứu
Trường đại học
Hoạt động đào
tạo
Công ty
quản lý
Quỹ tín thác
trường đại học
Trường đại
học
Hoạt động
đào tạo
Công ty quản lý
Quỹ tín thác
trường đại học
L.T.T. Ha, H.N. Le / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 48-67
52
Mô hình 1: Quỹ tín thác trường đại học như
một đơn vị độc lập – Đại học Havard
Tại nhiều trường đại học, quỹ tín thác được
vận hành bởi một đơn vị độc lập với các hoạt
động giảng dạy và đào tạo của trường đại học
[10]. Công ty quản lý quỹ tín thác có điều lệ,
nguyên tắc hoạt động và tổ chức nhân sự tách
biệt với khối hành chính và đào tạo.
Nhờ sự độc lập tương đối của đơn vị quản lý,
các chương trình và chiến dịch gây quỹ được
thực hiện ở một quy mô rộng và hướng đến nhiều
đối tượng tài trợ hơn. Thành viên ban điều hành
và nhân viên của công ty quản lý quỹ có thể bao
gồm cả nhân viên trong trường lẫn những nhà đầu
tư tài chính, giúp hoạt động đầu tư đạt hiệu quả cao
trong khi chi phí nhân sự không bị tăng quá cao.
Bên cạnh đó, mô hình quỹ tín thác như một
đơn vị độc lập cũng có thể gặp rủi ro khi mối liên
hệ giữa nhà trường và hội đồng quản trị quỹ gặp
vấn đề. Nhìn chung, tài sản và tiền mặt đóng góp
cho quỹ tín thác phần lớn đến từ các cựu sinh
viên, các tổ chức, công ty và đơn vị tư nhân có
mối quan hệ mật thiết với các khoa chuyên môn
[11]. Do đó, để gọi được một số vốn đáng kể cho
quỹ tín thì cả bộ phận điều hành quỹ và bộ phận
sư phạm cần thống nhất mục tiêu, chiến lược và
kết hợp nhuần nhuyễn trong quá trình triển khai.
Ngoài ra, khi phân bổ chi tiêu quỹ tín thác, ban
quản lý quỹ phải cần xem xét kĩ lưỡng, cân nhắc
cẩn thận nhu cầu, định hướng phát triển của từng
phòng ban, khoa chuyên môn trong trường. Điển
hình cho mô hình này là Quỹ tín thác của Đại học
Harvard.
Quỹ tín thác của Đại học Harvard là tài sản
tài lớn nhất của trường, hỗ trợ lâu dài và bền
vững cho sứ mệnh giảng dạy và nghiên cứu của
trường. Khoản tín thác của Harvard được tạo
thành từ hơn 13.000 quỹ nhỏ hơn nhằm thực hiện
hai hoạt động lớn nhất là hỗ trợ khoa chuyên môn
và sinh viên, bao gồm đánh giá, nâng cao trình
độ giáo sư và hỗ trợ tài chính cho sinh viên đại
học, nghiên cứu sinh, cho cuộc sống và các hoạt
động của sinh viên.
Cách thức quản lý quỹ tín thác Havard
Quỹ tín thác Havard được quản lý bởi công
ty quản lý Harvard (Harvard Management
Company - HMC) - một công ty con phi lợi
nhuận thuộc sở hữu của Đại học Harvard. Đây
chính là đơn vị đã quản lý danh mục đầu tư của
trường từ năm 1974 được điều hành bởi một ban
giám đốc gồm Chủ tịch và các Nghiên cứu sinh
do Đại học Harvard bổ nhiệm. HMC có một
nhiệm vụ duy nhất là tạo ra kết quả đầu tư tích
cực để hỗ trợ các mục tiêu giáo dục và nghiên
cứu của trường. HMC hoạt động để quản lý
nguồn lực một cách bền vững đảm bảo cung cấp
vốn cho các mục tiêu dài hạn của Harvard. HMC
không chỉ quản lý hoạt động gọi vốn, đầu tư, mà
còn phân bổ quỹ tín thác cho các hoạt động của
đại học Harvard.
Trên thực tế, chi tiêu của Harvard phải phân
bổ cho hai nhu cầu: đảm bảo vận hành ổn định
và có kế hoạch và duy trì giá trị dài hạn của tài
sản tín thác sau khi hạch toán lạm phát.
HMC giúp Harvard xác định các khoản phân
bổ tài trợ hàng năm sau khi xem xét nhiều yếu
tố, bao gồm kết quả thu được từ công thức tính
toán phân bổ mà đưa ra nguồn thu nhập ổn định
để hỗ trợ các nhu cầu hiện tại trong khi duy trì
sức mua trong tương lai.
Bảng 1. Phân bổ quỹ tín thác của Harvard cho những loại tài sản đầu tư và lợi nhuận trong năm 2018 (đơn vị: %)
Phân loại tài sản Trọng số phân bổ (%) Lợi tức thực tế (%)
Vốn chủ sở hữu công 31 14
Vốn chủ sở hữu tư nhân 16 21
Quỹ phòng vệ 21 6
Tài nguyên thiên nhiên 13 9
Trái phiếu 6 2
Tài nguyên thiên nhiên 8 1
Bất động sản và các khoản nợ cá nhân khác 2 1
Tiền mặt 3 0
Nguồn: Báo cáo tài chính Đại học Harvard, 2018 [12]
L.T.T. Ha, H.N. Le / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 48-67
53
Theo nguyên tắc chung, Harvard đặt ra tỷ lệ
xuất chi mục tiêu hàng năm từ 5,0% đến 5,5%
giá trị thị trường. Tỷ lệ xuất chi thực tế của
trường đã biến động tương đối mạnh trong 10
năm qua, từ mức thấp 4,2% trong năm tài khóa
2006 đến mức cao 6,1% trong năm tài khóa
2010. Sự bất ổn này xảy ra là bởi số tiền phân bổ
cho năm tiếp theo được xác định trước khi bắt
đầu năm tài chính và trước khi biết giá trị thị
trường vào cuối năm. Harvard lựa chọn tính toán
theo phương pháp này là để cho phép các trường
và các đơn vị trực thuộc có đủ thời gian để lập
kế hoạch tài chính.
Việc sử dụng công thức xuất chi có nghĩa là
tỷ lệ xuất chi hàng năm thường thấp hơn những
năm có lợi tức đầu tư tương đối cao và cao hơn
những năm sau khi mà lợi nhuận đầu tư thấp.
Điều chỉnh có thể được thực hiện trong những
năm tiếp theo, với điều kiện duy trì và đảm bảo
các mục tiêu thanh toán dài hạn để cân bằng sự
ổn định ngân sách với việc duy trì sức mua của
nguồn lực.
Kỷ lục về giá trị gọi vốn và lý do thành công
Chiến dịch gây quỹ của Đại học Harvard đã
trở thành một cột mốc quan trọng khi số vốn kêu
gọi được lên đến 9,6 triệu USD, trong khi mục
tiêu ban đầu chỉ là 6,5 triệu USD. Việc gọi vốn
thành công ngoài mong đợi đã nâng tổng giá trị
quỹ tín thác Đại học Harvard lên 39,2 triệu USD,
một con số chưa từng có của các quỹ từ thiện.
Trong hơn năm năm, từ tháng 09 năm 2013 đến
tháng 07 năm 2018, Harvard đã nhận được tài trợ
từ hơn 150.000 tổ chức, cá nhân và hộ gia đình,
bao gồm 46.000 nhà tài trợ mới.
Chiến dịch Harvard (The Harvard
Campaign) thực sự là một thành công rất đáng
học hỏi. Phân tích về nguyên nhân của số vốn kỷ
lục mà Harvard huy động được, tác giả Heather
Joslyn (2018) [13] đã chỉ ra các điểm sau đây:
i) Sự lãnh đạo nhiệt tình:
Drew Gilpin Faust, người đảm nhận chức
chủ tịch Công ty quản trị Harvard (HMC) từ năm
2007, là chìa khóa để kết nối với các nhà tài trợ.
Điều này được Tamara Rogers, Phó chủ tịch về
phát triển và kết nối cựu sinh viên nhận định
trong phỏng vấn với báo Philanthropy. Ngay từ
những ngày đầu tiên của nhiệm kỳ, bà Faust đã
thường xuyên có những buổi gặp mặt, tiếp xúc
với các trưởng khoa, chủ tịch các hội, nhóm sinh
viên, học giả và cựu sinh viên để tạo lập các mối
quan hệ. Cùng với đó, Rogers nhấn mạnh vai trò
của người lãnh đạo qua việc thể hiện sự tin tưởng
vào khả năng điều hành của Faust.
ii) Nhu cầu truyền thông trong kỷ nguyên
kỹ thuật số:
Trước khi thực hiện chiến dịch gây quỹ,
Harvard đã đưa ra những tuyên bố rất tích cực về
quỹ tín thác. 6,5 triệu USD mục tiêu ban đầu là
một con số không hề nhỏ, nhưng không vì vậy
mà ngôi trường này bị tạo áp lực hay theo đuổi
một cách gắt gao mục tiêu này. Thay vào đó, các
con số được sử dụng một cách thông minh để tạo
hiệu ứng truyền thông, thu hút sự chú ý của các
công ty, tập đoàn lớn trên thế giới.
iii) Một cấu trúc vừa bao hàm vừa phi tập
trung:
Đây là chiến dịch đầu tiên liên quan đến tất
cả trường học, khoa, bộ môn chuyên ngành trong
Harvard. Mỗi ngành đào tạo đều có một mục
tiêu. Mỗi trưởng khoa đã tìm ra nhu cầu của từng
phân môn cụ thể, từ đó xác định các ưu tiên và
nhà tài trợ tiềm năng. Những người đứng đầu các
trường trực thuộc cũng đồng thời là thành viên
của ủy ban điều hành chiến dịch và trong các
nhóm hỗ trợ tự nguyện. Nhân sự thực hiện Chiến
dịch Harvard được ví như một ma trận xuyên
suốt toàn bộ. Khi mỗi trường trực thuộc đạt được
mục tiêu đề ra cũng là khi Harvard thành công
với chiến dịch gọi vốn của mình.
iv) Đội ngũ nhân viên phát triển được đào
tạo bài bản:
Harvard đã cắt giảm nhân sự sau khi nguồn
quỹ tín thác bị ảnh hưởng trong thời kỳ suy thoái
tài chính vào năm 2007. Vào thời điểm chiến
dịch gọi vốn được công bố rộng rãi tới công
chúng, quy mô nhân sự trở về con số không.
Thêm vào đó, các trường đại học đều thuê thêm
nhân viên gây quỹ để thu hút những món quà
L.T.T. Ha, H.N. Le / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 4 (2020) 48-67
54
hiến tặng trị giá 10 triệu USD trở lên nhằm mang
lại lợi ích cho toàn bộ trường hoặc cho các dự án
thuộc sự bảo hộ bởi các trường trực thuộc, chẳng
hạn như dự án nghiên cứu tế bào gốc hay quỹ học
bổng kinh tế học hành vi. Trong một thị trường
việc làm đầy biến động, sự tiêu hao nhân lực luôn
là một thách thức hiện hữu với các quỹ tài trợ.
Những người đang làm tại Harvard có thể sẽ bị
cá