Tóm Tắt
Văn hoá và văn học có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau trong quá trình định hình và phát triển của mỗi
dân tộc. Trong đó, văn học là một trong những kênh để truyền tải đặc trưng của văn hoá, do vậy, ở một
mức độ nào đó, những đặc trưng về tính cách văn hoá của mỗi dân tộc đều sẽ được thể hiện qua các tác
phẩm văn học của dân tộc ấy. Có thể nói rằng, kiểu văn học nào cũng đều là kết quả của quá trình xây
dựng một kiểu tính cách văn hoá cụ thể nào đó; ngược lại, kiểu tính cách văn hoá nào cũng được bộc lộ
qua một kiểu văn học nào đó (nếu có)
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa kiểu văn học và kiểu tính cách văn hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 14 (39) - Thaùng 3/2016 
125 
Mối quan hệ giữa kiểu văn học 
và kiểu tính cách văn hóa 
Relations between literature type and cultural personality type 
ThS. Trần Duy Khương 
Trường Đại học Thủ Dầu Một 
M.A. Tran Duy Khuong 
Thu Dau Mot University 
Tóm Tắt 
Văn hoá và văn học có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau trong quá trình định hình và phát triển của mỗi 
dân tộc. Trong đó, văn học là một trong những kênh để truyền tải đặc trưng của văn hoá, do vậy, ở một 
mức độ nào đó, những đặc trưng về tính cách văn hoá của mỗi dân tộc đều sẽ được thể hiện qua các tác 
phẩm văn học của dân tộc ấy. Có thể nói rằng, kiểu văn học nào cũng đều là kết quả của quá trình xây 
dựng một kiểu tính cách văn hoá cụ thể nào đó; ngược lại, kiểu tính cách văn hoá nào cũng được bộc lộ 
qua một kiểu văn học nào đó (nếu có). 
Từ khoá: kiểu văn học, kiểu tính cách, văn hoá 
Abstract 
Culture and literature have the mutual ties in the shaping and developing process of every nation. 
Among them, literature is one of the channels to transmit cultural characteristic, therefore, to some 
extent, the characteristics of the culture of each people will be shown in their literary works. We can say 
that any literature type is also a result of the process of building a specific cultural personality type; on 
the contrary, any cultural personality type is also shown through a certain literature type (if any). 
Keywords: literature type, personality type, culture 
1. Khái quát về kiểu văn học và kiểu 
tính cách văn hoá 
1.1. Kiểu văn hoá và kiểu văn học 
Các sự vật hiện tượng trong thế giới 
đều rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, mỗi 
sự vật, hiện tượng đơn lẻ ấy đều có thể tìm 
thấy những điểm tương đồng từ những sự 
vật, hiện tượng khác. Từ những sự tương 
đồng này, chúng ta có thể quy ra các loại, 
các ngành, các họ, các nhóm hay các kiểu. 
Đối với các nền văn hoá cũng như các nền 
văn học trên thế giới, chúng ta cũng đều có 
thể phân loại chúng. Kết quả của sự phân 
loại ấy chính là sự hiện tồn của các loại 
hình văn hoá và các loại hình văn học. Ví 
dụ như, chúng ta có loại hình văn hoá 
phương Đông và phương Tây (theo 
phương vị), văn hoá truyền thống và văn 
hoá hiện đại (theo thời gian), văn hoá trọng 
động hay trọng dương và văn hoá trọng 
tĩnh hay trọng âm (theo tính chất của hoạt 
động). Tương tự, chúng ta cũng có loại 
126 
hình văn học phương Đông và văn học 
phương Tây (theo phương vị), loại hình 
văn học cổ điển và loại hình văn học hiện 
đại/ đương đại (theo thời gian) 
Tuy nhiên, trong cùng một loại hình, 
chúng ta lại có thể tiếp tục phân chia để 
hình thành nên các tiểu loại, ở đây, chúng 
tôi tạm gọi là các “kiểu”. Ví dụ như, cùng 
là những đất nước thuộc châu Á (phương 
Đông), nhưng các nền văn hoá điển hình 
ở nơi đây lại mang sắc thái riêng, có thể 
được định dạng thành các kiểu khác nhau: 
văn hoá sa mạc (vùng Trung Đông, Tây 
Á), văn hoá tâm linh (Ấn Độ), văn hoá thần 
quyền (Nhật Bản), văn hoá vương quyền – 
thế tục (Trung Quốc), văn hoá trọng tình 
(Việt Nam) Tương tự, chúng ta có các 
kiểu văn học tương ứng như sau: văn học 
ẩn ức sa mạc (đại diện là văn học Arap, Ba 
Tư), văn học tâm linh (đại diện là văn học 
Ấn Độ), văn học thần quyền - ngôn linh 
(đại diện là Nhật Bản), văn học thế tục (đại 
diện là Trung Quốc), văn học trọng tình 
(Việt Nam và những nền văn học Đông 
Nam Á). 
1.2. Kiểu tính cách văn hoá 
Tính cách
1
 là khái niệm dùng để chỉ 
những đặc trưng trong cách nhận thức, tổ 
chức, ứng xử (thể hiện qua bằng hành 
động) của một đối tượng người cụ thể. Đối 
tượng người này có thể là một người 
(mang tư cách là thành viên chính thức của 
xã hội) và cũng có thể là nhiều người 
(nhóm người, cộng đồng). Thế nhưng, do 
mang tính cộng đồng xã hội nên tính cách 
của một người cá nhân nào đó cũng chính 
là sản phẩm được hình thành từ tính cách 
của cộng đồng đó, cho nên khi nói đến tính 
cách, người ta thường nghĩ đến tính cách 
chung của một cộng đồng mà không phải 
là tính cách riêng của từng cá nhân (ngoại 
trừ những cá nhân có những nét tính cách 
khác cộng đồng, tuy nhiên, trường hợp này 
được xem là lập dị và rất dễ bị cộng đồng 
cô lập). 
Theo cách nói của Trần Ngọc Thêm, 
tính cách của cộng đồng ở đây chính là 
“tính cách tập thể”. Trong quyển Những 
vấn đề Văn hoá học lý luận và ứng dụng, 
Trần Ngọc Thêm viết: “Tính cách tập thể là 
hệ thống các đặc điểm tương đối bền vững 
của một cộng đồng người (chủ thể) trong 
điều kiện không gian và thời gian sinh tồn 
cụ thể của họ” [6: 207]. Và vì tính cách tập 
thể ấy là sản phẩm của một cộng đồng 
người cụ thể, cho nên nó mang những giá 
trị văn hoá nhất định, tức là, tính cách cộng 
đồng cũng chính là tính cách văn hoá. 
Xét về tính cách văn hoá, vì mỗi nền 
văn hoá đều được xây dựng bởi một cộng 
đồng người trong một không gian và một 
chuỗi thời gian cụ thể (bối cảnh đặc hữu), 
nên những phương thức nhận thức, tổ chức 
và ứng xử (thông qua hành động) của họ sẽ 
mang đặc trưng riêng. Chính vì điều này 
mà tính cách văn hoá cũng được phân loại 
thành những loại hình, những nhóm tính 
cách khác nhau, ví dụ loại hình tính cách 
dương ở phương Tây và loại hình tính cách 
âm ở phương Đông. Cùng một loại hình 
văn hoá, với những sự khác biệt về mặt 
điều kiện tự nhiên, con người và lịch sử 
phát triển mà mỗi cộng đồng dân tộc lại có 
những kiểu tính cách văn hoá khác nhau, ví 
dụ như trong khi người Trung Quốc có 
kiểu tính cách văn hoá là bành trướng thì 
người Ấn Độ lại có kiểu tính cách văn hoá 
là chuộng hoà bình, trọng đời sống tâm 
linh, còn người Nhật lại có kiểu tính cách 
là lập khuôn hoá tất cả những chuẩn tắc 
của cuộc sống thành các đạo (hình thành 
nên ý thức thu nhỏ của người Nhật Bản)2 
127 
1.3. Vị trí của kiểu văn học và kiểu 
tính cách văn hoá trong văn hoá 
Tuy đều là những thành tố của văn 
hoá, nhưng kiểu văn học và kiểu tính cách 
văn hoá lại không cùng hàng với nhau. 
Kiểu văn học là một chùm đặc trưng về 
nghệ thuật ngôn từ trong văn hoá tổ chức 
đời sống cá nhân của con người, nó ngang 
hàng với các thành tố nội bộ khác (tín 
ngưỡng, phong tục, các loại hình nghệ 
thuật) hoặc ngang hàng với các thành tố 
ngoại bộ của nó (như ăn uống, mặc, đi lại, 
cư trú). Trong khi đó, kiểu tính cách văn 
hoá lại là một chùm đặc trưng về tính cách 
con người trong một nền văn hoá. Tức là, 
kiểu tính cách văn hoá là một siêu thành tố, 
nó bao trùm lên tất cả các thành tố văn hoá 
khác, từ văn hoá nhận thức, văn hoá tổ 
chức cho đến văn hoá ứng xử của những 
thành viên trong cộng đồng văn hoá ấy. 
Tuy không ngang hàng nhau, nhưng cả 
hai đều quan hệ rất chặt chẽ với nhau, đặc 
biệt do văn học chính là hình thức truyền 
tải nhận thức một cách chi tiết nhất và rõ 
ràng nhất, nên có thể thông qua kiểu văn 
học mà thấy được kiểu tính cách văn hoá 
và ngược lại. Vị trí của hai thành tố này có 
thể được thể hiện qua sơ đồ như sau: 
2. Sự cộng tồn của kiểu văn học và 
kiểu tính cách văn hoá 
Con người nhận thức như thế nào thì 
sẽ hành động như thế đó. Tiếp theo, những 
hành động của một người được lặp đi lặp 
lại trong quá trình sinh tồn sẽ hình thành 
nên những đặc trưng trong tính cách. 
Tương tự, nhiều người trong cộng đồng ấy 
sẽ bị ảnh hưởng lẫn nhau trong cách quan 
niệm về thế giới xung quanh, và do vậy, 
những cách suy nghĩ này sẽ tạo ra hàng 
loạt những hành động mang tính thống 
nhất với nhau trong quá trình các cá nhân 
ấy tương tác với nhau. Ngược lại, những 
hành động mang tính thống nhất giữa các 
thành viên trong cộng đồng được lặp đi 
lặp lại trong quá trình họ cùng sinh tồn sẽ 
hình thành nên những đặc trưng về tính 
cách văn hoá. Có nghĩa là, kiểu nhận thức 
nào cũng sẽ có kiểu tính cách văn hoá 
tương ứng. 
Trong quá trình cùng tồn tại, kiểu nhận 
thức của mỗi dân tộc đều sẽ được thể hiện 
ra bằng các dạng lăng kính khác nhau: qua 
cách tổ chức làng xã, cách tổ chức gia 
đình, cách thực hiện các lễ nghi, cách sáng 
128 
tạo nghệ thuật, cách ứng xử với tự nhiên, 
cách ứng xử với người ngoại lai Ví dụ, 
do sống trong môi trường cạnh tranh khốc 
liệt nên người Hán luôn lấy tiêu chí tự 
cường, bành trướng làm tiêu chí hàng đầu 
(thể hiện rõ nét qua tiêu chí tu dưỡng của 
một người quân tử: tu thân, tề gia, trị quốc, 
bình thiên hạ). Nét tính cách này thể hiện 
một cách nhất quán qua các lĩnh vực như 
sau: trong nhận thức về vũ trụ thì luôn có 
tư tưởng bao thâu vũ trụ (nắm lấy thiên cơ 
qua các thuật chiêm bốc); trong nhận thức 
về bản thân con người thì luôn muốn nắm 
lấy tinh hoa của trời và đất (nhấn mạnh vị 
trí của con người trong bộ ba thiên - địa - 
nhân; nhấn mạnh hành thổ trong bộ năm 
kim - mộc - thuỷ - hoả - thổ); trong tổ chức 
vĩ mô thì xem người Hán là tinh hoa 
(Trung Quốc/ Trung Nguyên), còn tứ 
phương đều là man (ở phía Nam), rợ (tức 
Địch, ở phía Bắc), di (ở phía Đông), mọi 
(tức Nhung, ở phía Tây); trong tổ chức vi 
mô thì thường giữ gìn lễ tiết, phép tắc được 
đề cao; trong ứng xử với môi trường tự 
nhiên thì thường xây dựng những cung 
điện, thành quách vô cùng diễm lệ, hoành 
tráng; trong ứng xử với người ngoài thì 
luôn có khát vọng thôn tính, bành trướng 
và đồng hoá. Một trong những lăng kính 
soi chiếu một cách sâu sắc về nét tính cách 
bành trướng này chính là nghệ thuật văn 
chương Trung Hoa. Ngay cả trong thể thơ 
súc tích vào thời kỳ cổ đại của Trung Quốc 
- thơ Đường, nét tính cách văn hoá này 
cũng thể hiện rất rõ qua thi pháp không 
gian: nhìn từ gần ra xa, nhìn từ thấp lên 
trên cao, nhìn từ một điểm đến hàng vạn 
điểm Các bài thơ Vọng Lư sơn bộc bố, 
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi 
Quảng Lăng, Hành lộ nan (Lý Bạch); Điểu 
minh giản, Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn 
Đông bằng hữu (Vương Duy); Khuê oán, 
Thanh lâu oán (Vương Xương Linh); Đăng 
Quán Tước lâu (Vương Chi Hoán) đều 
phảng phất nét tính cách này. 
Nói tóm lại, giữa văn học và văn hoá 
(cụ thể là tính cách văn hoá) có mối quan 
hệ rất mật thiết với nhau. Một khi kiểu văn 
hoá (cụ thể là kiểu tính cách văn hoá) bị 
thay đổi thì kiểu văn học cũng sẽ bị thay 
đổi theo. Sự thay đổi từ kiểu văn học Bắc 
Bộ sang kiểu văn học Nam Bộ và sự thay 
đổi từ kiểu văn học “văn dĩ tải đạo” thời 
trung - cận đại sang kiểu văn học Tây hoá 
thời cận - hiện đại ở Việt Nam chính là hệ 
quả của sự chuyển đổi tính cách văn hoá từ 
tính cách tiểu nông sang tính cách tiểu 
thương và sự chuyển đổi từ kiểu tính cách 
văn hoá thiên về hình thức sang kiểu tính 
cách thiên về nội dung. Trong quyển Mối 
quan hệ giữa văn hoá và văn học, Đỗ Thị 
Minh Thuý đã chỉ ra hai lần thay đổi kiểu 
văn hoá (Hán hoá và Tây hoá) đã dẫn đến 
sự hình thành của hai kiểu văn học: văn học 
cổ điển và văn học hiện đại [8:128-238]. 
3. Kiểu văn học nhìn từ kiểu 
tính cách văn hoá qua một số đối tượng 
văn học cụ thể 
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng 
tôi chỉ trình bày một số nét khái quát về 
mối quan hệ chặt chẽ giữa kiểu văn học và 
kiểu tính cách văn hoá qua tác phẩm văn 
học Việt Nam Chiếc lược ngà (Nguyễn 
Quang Sáng) và đặc trưng trong thơ Haiku 
của Nhật Bản. 
3.1. Kiểu tính cách Nam Bộ qua tác 
phẩm Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng) 
Để làm rõ những đặc trưng tính cách 
người Nam Bộ qua tác phẩm Chiếc lược 
ngà, trước hết, chúng ta cần làm rõ những 
điều kiện hình thành nên kiểu tính cách 
Nam Bộ: 
Xét về điều kiện tự nhiên, Nam Bộ là 
vùng đất khá rộng, bao gồm hai phân vùng 
129 
là Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Đây là 
nơi có kiểu khí hậu nóng ẩm, sông ngòi 
chằng chịt (đặc biệt là Tây Nam Bộ với hệ 
thống chi nhánh của hạ lưu sông Mê 
Kông), vì thế mà mưa nhiều, đủ sức tưới 
cho cây. Hơn nữa, Nam Bộ là nơi có địa 
hình thấp, ít núi (chỉ có các dãy núi nhỏ 
như núi Bà Đen ở Tây Ninh, núi Chứa 
Chan ở Đồng Nai, núi Bao Quan ở Vũng 
Tàu, núi Thất Sơn ở An Giang), do vậy, 
chất đất ở đây phần nhiều là phù sa màu 
mỡ, thứ đến là phù sa cổ và đất đỏ bazan. 
Những điều kiện này rất thích hợp cho việc 
trồng trọt các loại cây lương thực, hoa 
màu, cây ăn trái cũng như đánh bắt và nuôi 
thuỷ hải sản. Vì vậy, câu nói “làm chơi ăn 
thiệt” phản ánh rất rõ về điều kiện tự nhiên 
thuận lợi ở nơi đây. Hơn nữa, Nam Bộ hầu 
như không bị bão, do vậy mà nhìn chung, 
đời sống vật chất của cư dân là khá thừa 
mứa (từ lúa gạo đến hoa quả, tôm cá), 
không lo nghĩ nhiều đến sự cạnh tranh, 
ganh đua; mà ngược lại, sự khoan dung, 
phóng khoáng và đối đãi nhiệt thành trở 
thành một trong những tiêu chuẩn sống. 
Ngoài ra, do đất rộng người thưa nên 
làng xã thường được tổ chức theo nguyên 
tắc mở, các thành viên không quá lệ thuộc 
vào nhau, kể cả giữa các thành viên trong 
tổ chức gia đình. Hơn nữa, dân Nam Bộ 
đều là những kẻ tha hương, những khách 
giang hồ tứ chiếng, mà những con người từ 
tứ phương đến đây sinh cơ lập nghiệp đều 
thường có chung một kiểu mặc cảm: ở nhờ 
nơi đất khách3. Do vậy, để có thể chung 
sống được với nhau, quan hệ giữa người 
với người ở nơi đây thường mang tính dân 
chủ, bình đẳng; nguyên tắc trọng tình được 
thay bằng nguyên tắc trọng nghĩa khí, 
trọng uy tín. 
Về điều kiện lịch sử - xã hội, theo 
quyển Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến 
năm 1884 của Nguyễn Phan Quang và Võ 
Xuân Đàn, việc khai khẩn vùng đất Nam 
Bộ có lẽ được bắt đầu từ sự phân liệt Nam 
- Bắc triều và phân liệt Trịnh - Nguyễn. Để 
tránh bị sát hại và cũng là để xây dựng lực 
lượng riêng cho dòng họ Nguyễn, vào năm 
1558, người con thứ của Nguyễn Kim là 
Nguyễn Hoàng đã xin vào trấn thủ đất 
Thuận Hoá; năm 1614, Nguyễn Phúc 
Nguyên nối ngôi cha và tiếp tục sự nghiệp 
khai khẩn đất phương Nam; năm 1692, 
Nguyễn Phúc Chu lên ngôi và quyết tâm 
tách Đàng Trong thành một xứ độc lập 
[4] Có thể nói, trong suốt các đời chúa 
Nguyễn (tính đến 1802), những nhóm 
người Việt khác nhau (nhóm tá điền không 
có ruộng đất, nhóm quân sĩ của nhà 
Nguyễn, nhóm tù binh trong các trận giao 
tranh bị các chúa Nguyễn bắt đày, nhóm 
anh hùng và thành phần trí thức bất mãn 
với thời thế) đã cùng nhau vượt qua 
vùng đất xưa vốn là vương quốc Champa 
để vào khai phá đất hoang ở phương Nam. 
Họ cộng cư với người Khmer (từ Lục Chân 
Lạp sang), người Hoa (từ miền Nam Trung 
Quốc đến tị nạn), người Chăm (từ các lân 
bang trở về miền Trung rồi quay trở xuống 
các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ) và trải qua 
quá trình Tây hoá mạnh mẽ từ giữa thế kỷ 
XIX, từ đó, họ đã tạo dựng nên một diện 
mạo văn hoá riêng ở vùng đất Nam Bộ: 
văn hoá của những con người lưu tán, tức 
là văn hoá của nhóm người giang hồ tứ 
chiếng. Chất giang hồ này sẽ quy định nên 
nét tính cách cương trực, chất phác, 
năng động. 
Như vậy, trong khoảng ba trăm năm 
khai khẩn và phát triển, người Việt ở Nam 
Bộ đã kịp định hình cho mình những nét 
tính cách đặc thù, theo Trần Ngọc Thêm, 
đó chính là tính thích ứng cao độ với môi 
trường sông nước (gọi tắt là tính sông 
130 
nước), tính trọng nghĩa, tính bộc trực, tính 
bao dung, tính thiết thực và tính mở thoáng 
[5: 637-832]. Những sản phẩm tính cách 
này được hình thành dựa trên các tiền đề 
sau đây: 1). Điều kiện tự nhiên đặc hữu ở 
Nam Bộ; 2). Cơ tầng văn hoá Việt Nam; 
3). Hoàn cảnh lịch sử xứ Đàng Trong cùng 
với sự đặc thù của nhóm người lưu tán; 4). 
Sự ảnh hưởng từ văn hoá phương Tây. 
Những nét đặc thù từ điều kiện tự 
nhiên và điều kiện xã hội, cũng như những 
nét đặc trưng trong tính cách con người 
phương Nam được nêu ra ở trên (thể hiện 
trong lối nhận thức, tổ chức và ứng xử) đã 
được thể hiện rất rõ trong tác phẩm văn học 
Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. 
Sự tương đồng giữa “kiểu tính cách văn 
hoá” và “kiểu văn học” được diễn ra ở 
những khía cạnh như sau: 
3.1.1. Ý thức cá nhân của nhân vật Thu 
Xuất phát từ nhóm người lưu tán, 
những con người Nam Bộ thường ít bị lệ 
thuộc vào tập thể, lại càng không bị áp đặt 
bởi những ràng buộc của tôn ty trật tự. Ở 
đây, yếu tố cá nhân có cơ hội được bộc 
phát và trở thành động lực để phát triển. 
Do vậy, tuy phận là con nhưng bé Thu 
không vì lời nói của mẹ mà chịu nhận ba. 
Nguyên nhân là người trong hình không hề 
giống với người đang đối diện với bé, đặc 
biệt là vào lúc ấy, ông Sáu quá xúc động 
nên gương mặt ửng đó, vết sẹo giần giật 
lên, trông rất đáng sợ. Lập trường này thể 
hiện rất rõ qua hàng loạt những hành động 
“cứng đầu”: không cho mẹ ngủ với ba bằng 
cách kéo ông Sáu ra và cắn vào người ông 
Sáu → khi ông Sáu tìm cách vỗ về thì nó 
càng tìm cách đẩy ra → phản kháng lại yêu 
cầu của mẹ khi buộc phải gọi “ba” vào ăn 
cơm → kêu trỏng khi mời ông Sáu ăn cơm 
→ gọi trỏng khi nhờ chắt nước cơm → tự 
lấy vá múc nước cơm để cơm không bị 
nhão → hất cái trứng cá mà ông Sáu gắp 
cho → cúi gằm mặt không khóc khi bị 
mắng và bị đánh → gắp trứng cá cho lại 
vào chén nhưng không ăn → nhảy xuống 
xuồng bơi qua nhà bà ngoại. Nếu nhìn từ 
bên ngoài, những hành động này có thể bị 
xem là hỗn láo, vô lễ, thế nhưng, nếu dựa 
vào hệ giá trị của văn hoá Nam Bộ thì 
những hành động này hoàn toàn là hợp lẽ 
và mang tính tất yếu. Đó là bởi vì Thu dựa 
vào lý mà không dựa vào tình (dù đã được 
ông Sáu dùng mọi cách làm hoà). 
Ngoài ra, việc bé Thu gọi tiếng “ba” 
và ôm chặt ông Sáu lúc đoàn người chuẩn 
bị lên đường cũng xuất phát từ cái nghĩa 
(nghĩa đồng loại), từ chữ tín (ba vẫn là ba 
mà không phải là người khác nên bé Thu 
thấy có lỗi đối với cách cư xử của mình 
trước đó, lúc này, chân lý đã được làm 
sáng tỏ nên nó ý thức được là phải thể hiện 
sự nhận thức đó ra bằng hành động) chứ 
không phải là vì vị nể bà ngoại hay mềm 
lòng trước sự chân thành của ông Sáu 
Nói tóm lại, những điều này đều xuất 
phát từ ý thức cá nhân, tính trọng lẽ phải, 
trọng uy tín trong quá trình xây dựng làng 
xóm của người Nam Bộ. 
3.1.2. Quan hệ gia đình và quan hệ 
xã hội 
Từ sự yêu thương của ông Sáu dành 
cho gia đình, đặc biệt là cho bé Thu, chúng 
ta có thể thấy được cách tổ chức gia đình 
rất điển hình của cư dân Nam Bộ. Vào 
ngày trở về thăm nhà, tuy được cả nhà thừa 
nhận nhưng ông Sáu lại không vin vào cái 
chứng cứ đó để ép buộc bé Thu nhận mình 
là ba, mà ngược lại vẫn xuống nước (tìm 
mọi cách để tiếp cận, làm hoà) trước Thu – 
con gái ruột của ông. Đây là biểu hiện của 
tính dân chủ, bình đẳng và bao dung trong 
quan hệ giữa người với người trong xã hội 
và trong gia đình. Ở đây, tính tôn ty trật tự 
131 
dường như bị làm mờ đi để nhường lại cho 
mối quan hệ xã hội sòng phẳng – mối quan 
hệ vốn được xác lập ngay từ khi người Việt 
rời quê hương miền Trung vào phương 
Nam mở cõi và bắt đầu cộng cư với các tộc 
người khác. Chính vì thế, tuy bé Thu là con 
gái và vẫn còn bé nhưng vẫn được xem là 
một thành viên độc lập, có tiếng nói trong 
gia đình. 
Ngoài ra, mối quan hệ gia đình kiểu 
mở này còn được thể hiện rõ nét ở thái độ 
không phân biệt con trai và con gái, không 
phân biệt vai trò dòng nội và dòng ngoại. 
Nếu ở Bắc Bộ và Trung Bộ, yếu tố Nho 
giáo tác động tương đối mạnh (con trai học 
hành, làm quan trong khi con gái chỉ có thể 
sinh con đẻ cái và quán xuyến việc nhà) 
nên dù ít hay nhiều thì cư dân nơi đây vẫn 
có tâm lý “con gái là con người ngoài”, 
“cháu ngoại thương dại thương dột”. Trong 
khi đó, ngay từ khi vào Nam khai khẩn thì 
người con gái có công lao rất lớn trong 
việc ổn định gia đình, họ cùng lao động 
cực nhọc với đàn ông, còn người đàn ông 
chỉ có công việc chính là phát quang, cày 
cuốc, làm nhà mà không có được cái “chữ” 
như các Nho sĩ Bắc và Trung Bộ. Do vậy, 
người Nam Bộ có xu hướng xem con gái 
làm trọng, đặc biệt là con gái út (do phải 
chăm sóc cha mẹ lúc về già). Mặt khác, do 
việc tổ chức làng xã không quá xem trọng 
tính ổn định nên con cái có thể không cùng 
sống với gia đình, con dâu có thể không 
sống với gia đình chồng nên khi sinh nở thì 
thường có tâm lý về nhà mẹ ruột. Vai trò 
của bà ngoại vì thế mà được khẳng định. 
Trong câu chuyện, bà ngoại chính là