TÓM TẮT
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay, mối quan hệ giữa triết học và các khoa học
trở thành vấn đề hết sức quan trọng, chứa đựng nội dung phong phú và sâu sắc. Triết học đóng vai trò
thế giới quan và phương pháp luận phổ biến cho các khoa học, là cơ sở lý luận để đánh giá thành tựu
của các khoa học, vạch ra phương hướng phát triển và phương pháp nghiên cứu của các khoa học. Về
phần mình, các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học các thành tựu để từ đó triết học khái quát thành
quan điểm chung nhất, đồng thời các thành tựu ấy còn có giá trị kiểm chứng những kết luận của
triết học.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 124 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa triết học và các khoa học dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
14
MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ CÁC KHOA HỌC DƯỚI
ÁNH SÁNG CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐẠI VÀ THỰC TIỄN HIỆN NAY
The relationship between Philosophy and the sciences in the light of modern
sciences and current practice
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Khá
Trường Đại học Sư phạm TP.HCM
TÓM TẮT
Dưới ánh sáng của khoa học hiện đại và thực tiễn hiện nay, mối quan hệ giữa triết học và các khoa học
trở thành vấn đề hết sức quan trọng, chứa đựng nội dung phong phú và sâu sắc. Triết học đóng vai trò
thế giới quan và phương pháp luận phổ biến cho các khoa học, là cơ sở lý luận để đánh giá thành tựu
của các khoa học, vạch ra phương hướng phát triển và phương pháp nghiên cứu của các khoa học. Về
phần mình, các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học các thành tựu để từ đó triết học khái quát thành
quan điểm chung nhất, đồng thời các thành tựu ấy còn có giá trị kiểm chứng những kết luận của
triết học.
Từ khóa: các khoa học, mối quan hệ, phương pháp luận, thế giới quan, triết học
ABSTRACT
In the light of modern science and current practice, the relationship between philosophy and the
sciences is of utmost importance and contains rich and profound content. Philosophy plays the role of
the worldview and popular methodology for the sciences, lays the theoretical basis for evaluating the
achievements of the sciences, outlining the development direction and research methods of the sciences.
For their part, the specific sciences provide philosophy with achievements from which it generalizes
into philosophical perspectives, and these achievements are meant to verify the conclusions of
philosophy.
Keywords: sciences, relationship, methodology, worldview, philosophy
1. Đặt vấn đề
Thời đại ngày nay gắn liền với cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với
những biến đổi hết sức đa dạng và phức tạp
trong bối cảnh toàn cầu hóa, quốc tế hóa
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi
các nhà triết học và các nhà khoa học cần
phải giải quyết đúng đắn, kịp thời những
yêu cầu lý luận và thực tiễn cấp bách. Đặc
biệt, những thành tựu mới của các khoa học
hiện đại và thực tiễn xã hội đang đặt ra
những vấn đề mới mà triết học cần phải có
sự giải đáp thuyết phục nhất, cũng như đòi
hỏi các nhà khoa học cần có sự định hướng
đúng đắn về thế giới quan và phương pháp
luận trong hoạt động nghiên cứu, xác định
đối tượng, nội dung, mục đích nghiên cứu
khoa học của mình. Sự giải đáp này chỉ có
thể thực hiện được khi một mặt các nhà
khoa học cần phải nắm vững và vận dụng
Email: khann@hcmue.edu.vn
NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
15
đúng đắn, sáng tạo thế giới quan và phương
pháp luận của triết học Mác – Lênin, mặt
khác các nhà triết học kịp thời nắm bắt và
khái quát các thành tựu mới nhất của các
khoa học hiện đại để bổ sung, phát triển lý
luận triết học, vận dụng sáng tạo vào trong
nhận thức và thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa triết học và các khoa
học có ý nghĩa hết sức quan trọng.
2. Vị trí của mối quan hệ giữa triết
học và các khoa học trong nhận thức và
thực tiễn
Trải qua quá trình lịch sử phát triển lâu
dài của triết học và các khoa học, mối quan
hệ giữa triết học và các khoa học đã trở
thành một trong những “vấn đề triết học”
được bàn luận sâu rộng; xung quanh nó
luôn luôn tồn tại những quan điểm khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Có quan điểm
tuyệt đối hóa vai trò của triết học, hạ thấp
hay coi thường vai trò của các khoa học,
cho rằng chỉ cần nắm được triết học thì sẽ
giải quyết được tất cả các vấn đề cụ thể của
đời sống. Ngược lại, có quan điểm tuyệt
đối hóa vai trò của các khoa học, hạ thấp
hoặc gạt bỏ vai trò của triết học và cho
rằng: thứ nhất, triết học nghiên cứu và giải
quyết những vấn đề quá chung nên những
kết quả của nó không có tác dụng thiết
thực; thứ hai, triết học không có phương
pháp riêng và trang thiết bị nghiên cứu
riêng như các khoa học cụ thể nên tính
chân lý của các kết luận triết học không
được bảo đảm.
Có thể nói, cả hai quan điểm trên đây
về mối quan hệ giữa triết học và các khoa
học thực chất là cực đoan, sai lầm và đều
rơi vào một trong hai thái cực của cùng
một lối tư duy siêu hình. Bởi lẽ, để giải
quyết một cách có hiệu quả những vấn đề
cụ thể mà cuộc sống đặt ra, cần phải có sự
kết hợp chặt chẽ cả hai loại tri thức: một là,
tri thức lý luận (trong đó có tri thức triết
học và tri thức các khoa học chuyên ngành)
và hai là, tri thức thực tiễn (trong đó có sự
hiểu biết tình hình thực tiễn và trình độ tay
nghề, kinh nghiệm được biểu hiện, trải
nghiệm qua sự nhạy cảm với thực tiễn).
Sự ra đời chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã đem lại một quan điểm mới, tích
cực về mối quan hệ giữa triết học và các
khoa học. Trên lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, dưới ánh sáng của
khoa học hiện đại và thực tiễn xã hội, mối
quan hệ giữa triết học và các khoa học
được hiểu ở một tầm cao mới, sâu sắc hơn,
gắn liền với các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội. Giải quyết mối quan hệ này có
ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển của
bản thân triết học, cũng như của các khoa
học, và có tầm quan trọng đặc biệt tác động
đến sự phát triển của đời sống xã hội trong
giai đoạn hiện nay.
Mối quan hệ giữa triết học và các khoa
học là mối quan hệ biện chứng, vừa có sự
thống nhất vừa có sự khác biệt, tác động
qua lại lẫn nhau. Triết học và các khoa học
đều là khoa học, thuộc về lĩnh vực tinh
thần của đời sống xã hội, là các hình thái ý
thức xã hội nên đều là sự phản ánh tồn tại
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định. Cả triết học, cả các khoa học khác
đều có nguồn gốc sâu xa xuất phát từ thực
tiễn, là sản phẩm của thực tiễn, do nhu cầu
phát triển của sản xuất và đời sống, đều
hình thành và phát triển gắn liền với thực
tiễn, nhằm đáp ứng nhu cầu tất yếu của con
người. Chính điều này đã được Ph.
Ăngghen khẳng định trong tác phẩm bút
chiến “Chống Đuy-rinh”: “Cũng như tất cả
các khoa học khác, toán học sinh ra từ
những nhu cầu thực tiễn của con người”
(C. Mác và Ph. Ăng-ghen, tập 20, tr.59).
Cùng với sự phát triển của sản xuất và
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
16
thực tiễn, đối tượng nghiên cứu của triết
học và các khoa học ngày càng trở nên đa
dạng, phức tạp nên triết học cùng các khoa
học cũng không ngừng phát triển và đóng
vai trò ngày càng quan trọng đối với đời
sống xã hội. Mặt khác, triết học và các khoa
học khác có điểm chung là sử dụng các
công cụ của tư duy logic, của lý trí, trí tuệ
con người thông qua sự khái quát hóa, trừu
tượng hóa, hệ thống hóa để thiết lập nên
các mệnh đề, nguyên lý, phạm trù, quy luật.
Như vậy, cơ sở khách quan của mối
quan hệ giữa triết học và các khoa học, đó
là thực tiễn. Trên cơ sở thực tiễn mà triết
học và các khoa học, hình thành và phát
triển. Nhờ có thực tiễn mà các nguyên lý,
quy luật, phạm trù của triết học, các kết quả
của các khoa học mới thể hiện tính chân lý,
thể hiện sự phù hợp với hiện thực. Chính
thực tiễn là cơ sở thống nhất giữa triết học
và các khoa học. Thực tiễn đã gắn kết triết
học và các khoa học trong mối quan hệ biện
chứng và tạo thành một chỉnh thể – một hệ
thống các khoa học.
Tính đặc thù của mối quan hệ giữa
triết học và các khoa học là ở chỗ, tùy vào
từng giai đoạn phát triển cụ thể mà cái này
hay cái kia nổi trội lên hàng đầu đóng vai
trò chi phối. Giữa triết học và các khoa
học có sự tác động qua lại lẫn nhau; trong
đó triết học đóng vai trò là cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận cho sự phát
triển của các khoa học khác, còn các khoa
học cung cấp dữ liệu để từ đó triết học
khái quát thành các quan điểm chung nhất,
kiểm chứng các luận điểm của nó.
3. Vai trò của triết học đối với các
khoa học
Trong quá trình hình thành, phát triển
trên 2500 năm, triết học đóng vai trò là thế
giới quan và phương pháp luận phổ biến
cho các khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận để
đánh giá các thành tựu của các khoa học,
vạch ra phương hướng phát triển và
phương pháp nghiên cứu của các khoa học.
a. Vai trò thế giới quan của triết học
đối với các khoa học
Theo nghĩa khoa học, thế giới quan là
toàn bộ những quan niệm của con người về
thế giới, về vị trí, vai trò của con người
trong thế giới ấy, về chính bản thân và
cuộc sống của con người và loài người”.
Như vậy, trong thế giới quan đã bao hàm
nhân sinh quan, tức là toàn bộ những quan
niệm về cuộc sống của con người và loài
người. Sự hình thành lý tưởng là trình độ
phát triển cao của thế giới quan.
Thế giới quan là nhân tố định hướng
cho quá trình hoạt động sống của con
người. Thế giới quan như một “thấu kính”
qua đó con người xác định mục đích, ý
nghĩa cuộc sống và lựa chọn cách thức đạt
mục đích đó. Trình độ phát triển của thế
giới quan là tiêu chí quan trọng về sự
trưởng thành của mỗi cá nhân và cộng
đồng nhất định.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân
lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác
dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
và tri thức do các khoa học đưa lại. Triết
học là hạt nhân lý luận, là bộ phận quan
trọng nhất trong thế giới quan, bởi vì triết
học mô tả những vấn đề của thế giới quan
bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù,
quy luật; nó chi phối các quan niệm khác
của thế giới quan, như quan niệm về đạo
đức, văn hóa, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ,
tôn giáo.v.v. Triết học trang bị cho con
người những quan niệm về thế giới, về vị
trí, vai trò của con người trong thế giới ấy,
về chính bản thân và cuộc sống của con
người và loài người, và chính là chức năng
thế giới quan của triết học.
NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
17
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan
triết học cơ bản đối lập nhau. Vì vậy, chúng
đóng vai trò là hạt nhân, là nền tảng thế giới
quan của các hệ tư tưởng đối lập nhau.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện
bằng cách này hay cách khác cuộc đấu
tranh giữa những giai cấp, những lực lượng
xã hội đối lập nhau. Do đó, thế giới quan
đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh
quan tích cực giúp cho con người sáng tạo
trong hoạt động; ngược lại, thế giới quan
sai lầm làm cho con người sống thụ động
hoặc sai lệch trong hoạt động nói chung,
hoạt động khoa học nói riêng.
Về vai trò của triết học đối với các
khoa học, trước hết là cơ sở để giải thích
và định hướng nhận thức và hoạt động của
các khoa học. A. Einstein (A. Anh-xtanh)
đã từng nhận xét vào năm 1954 rằng,
những khó khăn mà nhà vật lý hiện nay
đang vấp phải trong lĩnh vực của mình đã
buộc ông ta phải đề cập đến những vấn đề
triết học nhiều hơn nhiều so với nhà vật lý
của các thế hệ trước. M. Plank - nhà vật lý,
cha đẻ của cơ học lượng tử khẳng định
rằng, thế giới quan của người nghiên cứu
luôn tham gia vào việc xác định hướng
nghiên cứu của người đó (Xem: Bộ Giáo
dục và Đào tạo, 2015, tr.168). Vì vậy,
nghiên cứu triết học giúp ta định hướng
hoàn thiện thế giới quan. M. Plank cũng có
nhận xét tương tự như A. Einstein: “Một
tập hợp những sự kiện mới càng rối rắm
bao nhiêu, các tư tưởng mới càng nhiều
hình nhiều vẻ bao nhiêu thì nhu cầu phải có
một thế giới quan liên kết lại càng cảm
thấy trở nên bức thiết bấy nhiêu. Xu hướng
tìm đến thế giới quan liên kết này có ý
nghĩa lớn lao không chỉ đối với vật lý học,
mà còn đối với toàn bộ khoa học tự nhiên”
(Dẫn theo: Lê Hữu Tầng, 2006, tr.21).
Như vậy, khi đi vào giải quyết những
vấn đề cụ thể của hoạt động nhận thức và
thực tiễn, người nghiên cứu sớm muộn sẽ
vấp phải những vấn đề chung, trong đó có
những vấn đề triết học mà việc giải quyết
chúng là cơ sở cho việc giải quyết các vấn
đề cụ thể của các khoa học.
Triết học có vai trò thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của các khoa học. Vai trò
thúc đẩy hay kìm hãm của triết học đối với
các khoa học tùy thuộc vào nội dung và
bản chất của triết học ấy là tiến bộ hay lạc
hậu, cách mạng hay phản cách mạng, tích
cực hay tiêu cực.
Triết học sáng suốt dẫn đường cho các
khoa học phát minh, sáng chế. Lịch sử của
các khoa học cho thấy tất cả các phát minh
khoa học, nhất là những phát minh có ý
nghĩa vạch thời đại đều được định hướng
hay ảnh hưởng bởi những tư tưởng triết
học dẫn đường nào đó. Những hạn chế
trong tư tưởng triết học sẽ dẫn tới cản trở
sự phát triển của khoa học và thực tiễn.
Chính do ảnh hưởng của thế giới quan duy
tâm, tôn giáo nên đã xuất hiện thuyết “Địa
tâm” của Ptoleme (Ptô-lê-mê). Đặc biệt,
trong đêm trường trung cổ ở Tây Âu do sự
thống trị của tôn giáo và thần học, do ảnh
hưởng, chi phối của thế giới quan duy tâm
và chủ nghĩa kinh viện nên khoa học cũng
như thực tiễn trở nên trì trệ, không phát
triển trong suốt 11 thế kỷ.
Như vậy, các nhà khoa học không cần
phải nghi ngờ, dao động rằng triết học có
cần thiết hay không, mà cần phải tìm kiếm,
lựa chọn tư tưởng triết học nào dẫn đường,
chỉ lối, như Ph.Ăng-ghen đã nhấn mạnh:
“Vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi
một thứ triết học tồi tệ hợp mốt, hay họ
muốn được hướng dẫn bởi một hình thức
tư duy lý luận dựa trên sự hiểu biết về lịch
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020)
18
sử tư tưởng và những thành tựu của nó”
(C.Mác và Ph.Ăng-ghen, tập 20, tr.693).
Triết học, dù là khác nhau trong các hệ
thống hay trường phái khác nhau nhưng
đều có cách lý giải nhất định về thế giới, từ
đó nội dung cốt lõi của nó bao giờ cũng
bao gồm những quan điểm lý luận chung
nhất về thế giới, về vị trí, vai trò của con
người trong thế giới đó. Trên cơ sở của sự
lý giải ấy, triết học trở thành cái định
hướng cho con người trong hành động,
củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi
cá nhân và cộng đồng.
Các quan điểm triết học giúp con
người nhận thức và hoạt động thực tiễn bao
giờ cũng xuất phát từ một lập trường nhất
định. Lập trường xuất phát ấy giúp con
người thấy trước được phương hướng vận
động chung của đối tượng, từ đó xác định
được con đường cần đi, phương hướng,
cách thức giải quyết vấn đề, tránh được
những mò mẫm, mù quáng. Và như vậy,
xuất phát từ những lập trường triết học
khác nhau, con người sẽ đi đến chỗ lựa
chọn những phương hướng và cách thức
giải quyết vấn đề một cách khác nhau.
Điều đó có nghĩa là, việc chấp nhận
hay không chấp nhận một lập trường triết
học nào đó không chỉ đơn thuần là đối với
một thế giới quan nhất định hay một cách
lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự
chấp nhận hay không chấp nhận một
phương pháp luận nhất định chỉ đạo hành
động. Vậy là, khi trở thành cái định hướng
cho con người trong hành động, triết học
thực hiện một chức năng khác - chức năng
phương pháp luận.
b. Vai trò phương pháp luận của triết
học đối với các khoa học
Vai trò phương pháp luận của triết học
đối với nhận thức và thực tiễn thể hiện ở
chỗ, nó đóng vai trò định hướng trong việc
chỉ đạo tìm kiếm, xây dựng, lựa chọn và
vận dụng các phương pháp để thực hiện
hoạt động nhận thức và thực tiễn sao cho
có hiệu quả nhất. Triết học trang bị cho con
người những nguyên tắc phương pháp luận
để chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực
tiễn của con người; đó chính là chức năng
phương pháp luận của triết học.
Theo nghĩa khoa học, phương pháp
(methodos) là hệ thống những nguyên tắc
được rút ra từ tri thức về các quy luật
khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện
mục tiêu nhất định.
Trong đời sống xã hội, để đạt được
mục đích đề ra, con người có thể sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết
một công việc nào đó, nên luôn có xu
hướng đi tìm tòi, tìm kiếm các phương
pháp tối ưu nhất, giản đơn nhất, tiện lợi
nhất, tiết kiệm thời gian nhất, nhưng lại đạt
hiệu quả cao nhất. Để thỏa mãn nhu cầu ấy,
trong lĩnh vực nhận thức đã xuất hiện một
khoa học chuyên nghiên cứu về phương
pháp, xác định phạm vi và khả năng áp
dụng các phương pháp. Khoa học ấy, chính
là phương pháp luận.
Phương pháp luận (methodologie) là lý
luận về phương pháp, là khoa học về
phương pháp, là hệ thống các quan điểm,
nguyên lý chỉ đạo để xác định các nguyên
tắc hợp thành phương pháp, cũng như xác
định phạm vi và khả năng áp dụng các
phương pháp. Mỗi luận điểm triết học đồng
thời là một nguyên tắc trong việc xác định
phương pháp, phạm vi và khả năng áp
dụng các phương pháp. Triết học trang bị
cho con người có được phương pháp luận
chung nhất, giúp con người trở nên năng
động sáng tạo, chủ động hơn trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn, phù hợp với
xu hướng phát triển nói chung.
NGUYỄN NGỌC KHÁ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
19
Khi triết học giúp cho con người có
được cái nhìn tổng quát, có cách lý giải
đúng đắn về chiều hướng và về những biến
động trên thế giới, về xã hội, về bản thân
mình thì chính triết học đã giúp con người
có được sự định hướng đúng đắn trong
hành động và củng cố sự quyết tâm hành
động để đạt được mục đích của mình.
Chính triết học sẽ giúp con người rèn luyện
khả năng tư duy mềm dẻo, nhạy bén, vừa
là để tự nhận thức bản thân mình, vừa là để
nhận thức đúng đắn và chính xác hoàn
cảnh khách quan và dự báo được những
biến động của xã hội.
Triết học không chỉ giúp con người có
được cách nhìn nhận đúng đắn thế giới, mà
còn giúp con người có được khả năng đánh
giá những biến động đang diễn ra, gợi mở
cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà
cuộc sống đặt ra. Nó vừa thực hiện chức
năng giải thích thế giới và vừa góp phần
biến đổi thế giới.
Khẳng định trên đây cho thấy triết học
không phải là một cái gì xa xôi, viển vông;
ngược lại, nó gắn bó hết sức mật thiết với
cuộc sống, với thực tiễn và đặc biệt có giá
trị định hướng cho các khoa học. Sự phân
tích, lý giải triết học đối với các dữ liệu
khoa học cũng chính là sự nghiên cứu các
hiện tượng ở tầm khái quát. Triết học
không đi sâu giải quyết các vấn đề khoa
học cụ thể, mà đi sâu giải quyết các vấn đề
thuộc về lý luận phổ quát. Phát triển song
hành cùng các khoa học cụ thể, triết học
vạch ra logic của các quá trình nhận thức,
trở thành phương pháp luận phổ biến của
nhận thức khoa học.
Thực tiễn phát triển của triết học và
các khoa học đã chỉ ra rằng, triết học đi
trước các khoa học cụ thể trên nhiều lĩnh
vực, bằng những kết luận đúng đắn, bằng
những phỏng đoán và dự đoán mang tính
vượt thời đại, triết học đã vạch đường, cổ
vũ cho các khoa học tiến lên, định hướng
cho các khoa học phát triển, trang bị những
công cụ nhận thức để các khoa học khắc
phục những khó khăn, trở ngại trên con
đường phát triển của mình. Chẳng hạn: tư
tưởng về tính quy luật của sự phát triển đã
được nêu lên trong triết học sớm hơn nhiều
thế kỷ trước khi nó được chứng minh trong
các khoa học cụ thể; thuyết nguyên tử ra
đời sớm hơn hàng nghìn năm trước khi
nguyên tử được các khoa học phát hiện ra
trong thực tế; tư tưởng của V. I. Lênin về
tính vô tận, vô hạn trong cấu trúc vật chất
và tính đa dạng về chất của nó là cơ sở lý
luận phổ biến cho các khoa học xây dựng
bức tranh chung về thế giới.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học, cũng như những ứng dụng rộng
rãi của nó trong thực tiễn đã và đang làm
thay đổi sâu sắc đời sống con người. Con
đường duy nhất để khắc phục những giáo
điều, khuôn sáo, trì trệ là nắm chắc và vận
dụng đúng phép biện chứng duy vật, vì
phép biện chứng duy vật là phương pháp
luận phổ biến của nhận thức khoa học và
thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên, Hồ