Các mục tiêu của quan trắc môi trường bao gồm:
o Cung cấp các đánh giá về diễn biến chất lượng môi trường trên
quy mô quốc gia, phục vụ việc xây dựng báo cáo hiện trạng môi
trường.
o Cung cấp các đánh giá về diễn biến chất lượng môi trường của
từng vùng trọng điểm được quan trắc để phục vụ các yêu cầu tức
thời của các cấp quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
o Cảnh báo kịp thời các diễn biến bất thường hay các nguy cơ ô
nhiễm, suy thoái môi trường.
o Xây dựng cơ sở dữ liệu về chất lượng môi trường phục vụ việc lưu
trữ, cung cấp và trao đổi thông tin trong phạm vi quốc gia và quốc
tế.
123 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1927 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Môi trường và con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môi trường và con người
Khoa Kỹ Thuật Công Nghệ Môi Trường
Môi Trường Và Con Người
Tác giả: Trần Minh Tâm
Biên mục: sdms
Mở đầu
Sống ở thời đại ngày nay, một dân tộc được coi là văn minh thì nhất thiết dân tộc
đó phải biết coi trọng những mục tiêu phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột:
Tăng trưởng kinh tế - Tiến bộ xã hội - Bảo vệ môi trường và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Mỗi người dân ở đất nước văn minh ngày nay phải là người
có ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường ở mọi nơi mọi lúc. Điều
đó chỉ trở thành hiện thực khi trình độ dân trí không ngừng được nâng cao.
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay cũng luôn luôn coi bảo
vệ môi trường là công việc và trách nhiệm của mọi người, thể hiện rõ ràng nhất
là Chỉ thị số 36-CT /TƯ của Bộ Chính trị Ban Chấp hành TƯ Đảng CSVN khóa
8 đã nêu rõ "Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân". Trong Luật Bảo vệ môi trường, Điều 6 cũng có ghi "Bảo vệ môi trường là
sự nghiệp của toàn dân".
Thực hiện Quyết định số 1363/QĐ-TTg, ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt đề án:“Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống
giáo dục quốc dân”. Mục tiêu lâu dài của Dự án đến năm 2010 là: “Đưa các nội
dung giáo dục bảo vệ môi trường vào chương trình giảng dạy (chính khóa và
ngoại khóa) ở tất cả các cấp học, bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm trang bị những kiến thức cơ bản phù hợp với độ tuổi và tâm sinh lý của
học sinh, sinh viên về môi trường và bảo vệ môi trường. Giáo dục cho thế hệ trẻ
ý thức trách nhiệm đến môi trường, hình thành kỷ năng và hành vi ứng xử tích
cực và thân thiện đối với môi trường và công tác bảo vệ môi trường. Đào tạo
cán bộ quản lý môi trường, nghiên cứu khoa học và công nghệ về môi trường,
đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa và phát triển bền vững
của đất nước."
Hiện nay tại trường Đại học An Giang; tài liệu, giáo trình về Môi trường và Con
người cho sinh viên ngành Kinh tế nói riêng và ngoài khối ngành ngoài Sư
phạm nói chung còn chưa có. Cho nên chúng tôi cố gắng biên soạn tài liệu
giảng dạy này từ nhiều tài liệu, giáo trình nhằm giúp việc dạy và học môn học
Môi trường và Con người được thuận tiện hơn. Các bài giảng được biên soạn
căn cứ vào đề cương chi tiết do Bộ Giáo dục và Ðào tạo ban hành cùng với một
số điều chỉnh nhỏ (khoảng 10%) được phép để phù hợp với chuyên ngành đào
tạo và thực tiển ở địa phương nhằm phục vụ cho sinh viên các ngành ngoài Sư
Phạm của trường Đại Học An Giang.
Tài liệu này được thực hiện với sự tham gia của các giảng viên Bộ môn Môi
trường và Phát triển bền vững, khoa Kỹ thuật – Công nghệ - Môi trường, trường
Đại học An Giang. Tài liệu được chỉnh sửa theo ý kiến trong buổi nghiệm thu
thông qua Hội đồng khoa học liên Khoa. Chúng tôi chân thành cảm ơn T.S.
Nguyễn Tri Khiêm, Th.s. Võ Tòng Anh và Th.s. Trương Bá Thảo; cám ơn quý
Thầy Cô đã góp ý và tham gia giúp đỡ việc biên soạn tài liệu giảng dạy này.
Tất nhiên, tài liệu cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong
nhận được sự đóng góp của Quý Thầy Cô, các sinh viên cùng độc giả để hoàn
thiện tài liệu nhằm phục vụ công tác dạy học môn học tại Trường Đại học An
Giang được tốt hơn.
Chủ biên
Trần Minh Tâm
Chương 1: MỞ ĐẦU VỀ MÔN HỌC
Mở đầu về khoa học môi trường
1.1.1. Một số định nghĩa về môi trường
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ
mật thiết với nhau; bao quanh con người; có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất,
sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên (Điều 1, Luật Bảo vệ môi
trường, 1993).
Đây là một định nghĩa mang tính tổng quát, có tính pháp lý từ Luật Bảo vệ môi
trường của Việt Nam. Có nhiều khái niệm về môi trường và được hiểu theo các
nghĩa khác nhau.
Môi trường theo nghĩa rộng nhất là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh
hưởng tới một vật thể hoặc một sự kiện. Bất cứ một vật thể, một sự kiện nào
cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường. Đối với cơ thể sống thì “Môi
trường sống là tổng hợp những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới đời sống
và sự phát triển của cơ thể” (Lê Văn Khoa, 1995)
Môi trường bao gồm tất cả những gì bao quanh sinh vật, tất cả các yếu tố vô
sinh và hữu sinh có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự sống, phát triển và
sinh sản của sinh vật (Hoàng Đức Nhuận, 2000). Theo tác giả có 4 thành phần
chính tác động qua lại lẫn nhau, đó là:
• Môi trường tự nhiên: nước, không khí, đất đai, ánh sáng và các sinh vật.
• Môi trường kiến tạo: những cảnh quan được thay đổi do con người.
• Môi trường không gian: gồm các yếu tố về địa điểm, khoảng cách, mật độ,
phương hướng và sự thay đổi trong môi trường.
• Môi trường văn hóa – xã hội: gồm các cá nhân và các nhóm, công nghệ,
tôn giáo, các định chế, kinh tế học, thẩm mỹ học, dân số học và các hoạt
động khác của con người.
Môi trường sống của con người thường được chia thành các loại sau: môi
trường tự nhiên, môi trường nhân tạo, môi trường xã hội.
Môi trường có các chức năng cơ bản sau (Lê Văn Khoa, Khoa học môi trường,
trang 10):
• Không gian sinh sống của con người và sinh vật
• Nơi chứa đựng các nguồn tài nguyên
• Nơi lưu trữ và cung cấp các nguồn thông tin
• Nơi chứa đựng các phế thải con nguời tạo ra trong cuộc sống
Khoa học môi trường là ngành khoa học nghiên cứu mối quan hệ và tương tác
qua lại giữa con người và môi trường xung quanh. Con người và môi trường
luôn thống nhất với nhau.
Nội dung nghiên cứu bao gồm một số phần cơ bản như sau:
• Các nguyên lý cơ bản của sinh thái học và đặc điểm, bản chất quan hệ
giữa các thành phần trong môi trường sinh học.
• Những lý luận và thực tiễn về quan hệ giữa dân số và môi trường.
• Sử dụng tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường.
• Những giải pháp đã và đang thực hiện nhằm cải thiện mối quan hệ giữa
môi trường và con người: các biện pháp quản lý, tổ chức và giáo dục.
1.1.2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học
Đối tượng nghiên cứu của môn học là nghiên cứu các yếu tố tự nhiên, yếu tố
vật chất, nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sự sản
xuất, sự tồn tại phát triển của con người và thiên nhiên.
Nhiệm vụ của khoa học môi trường là tìm ra các biện pháp giải quyết các vấn
đề môi trường ở thời đại ngày nay – thời đại ứng với xã hội công nghiệp và hậu
công nghiệp. Đó là các vấn đề:
• Gia tăng dân số hợp lý.
• Sản xuất công, nông, lâm, ngư nghiệp bền vững.
• Xây dựng các khu công nghiệp, đô thị, điểm dân cư bền vững.
• Phòng, chống và xử lý các ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí…)
• Khai thác hợp lý và bảo toàn tài nguyên thiên nhiên, rừng, biển, khoáng
sản…
• Quản lý tốt môi trường và phòng tránh các rủi ro về môi trường…
• Nguyên lý cơ bản của sinh thái học, quần thể, quần xã ảnh hưởng đến
con người và ngược lại.
• Vấn đề lương thực, thực phẩm, nhà ở, đô thị hóa, công nghiệp hóa.
Mục tiêu của khoa học môi trường là xác định, thấu hiểu các vấn đề mà tổ tiên
của chúng ta và chính chúng ta đã khơi dậy, xúc tiến. Thực tế cho thấy hầu hết
các vấn đề môi trường thường rất phức tạp, không chỉ giải quyết đơn thuần
bằng khoa học, công nghệ vì chúng thường liên quan và tác động tương hỗ đến
nhiều mục tiêu và quyền lợi khác nhau.
Khoa học môi trường sử dụng một loạt các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
và thực nghiệm của các ngành khoa học cơ bản khác, chẳng hạn như:
• Các phương pháp thu thập và xử lý số liệu thực tế, các thực nghiệm.
• Các phương pháp phân tích thành phần môi trường.
• Các phương pháp phân tích đánh giá xã hội, quản lý xã hội, kinh tế.
• Các phương pháp tính toán, dự báo, mô hình hóa.
• Các giải pháp kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật.
• Các phương pháp phân tích hệ thống.
1.1.3. Các phân môn và mối quan hệ giữa khoa học môi trường với các khoa học khác
Cần phân biệt khoa học môi trường với công nghệ môi trường; là công nghệ để
xử lý các loại ô nhiễm. Các phân môn của khoa học môi trường gồm: sinh học
môi trường, địa học môi trường, hóa học môi trường, y học môi trường, kinh tế-
xã hội môi trường…
Khoa học môi trường (hay Môi trường và con người) là một môn khoa học tổng
hợp, liên ngành, sử dụng và phối hợp thông tin từ nhiều lĩnh vực; quan hệ chặt
chẽ với các ngành khoa học khác. Để giải quyết các vấn đề môi trường cần đến
rất nhiều ngành khoa học khác nhau; đó là: sinh học, sinh thái học, các khoa học
về Trái Đất, các khoa học xã hội, kinh tế, nhân văn, khoa học quản lý, chính trị,
luật pháp… Các ngành khoa học công nghệ, kỹ thuật cũng cần được sử dụng
khi phải giải quyết các vấn đề môi trường. Do đó các kiến thức cơ bản trong các
lĩnh vực trên sẽ rất cần thiết cho việc tìm hiểu về Môi trường và Con người.
Khoa học môi trường trên thế giới và ở nước ta hiện nay và phương hướng phát
triển sắp tới
1.2.1. Những thách thức môi trường hiện nay trên thế giới
Báo cáo tổng quan môi trường toàn cầu năm 2000 của Chương trình Môi
trường Liên hợp quốc (UNEP) viết tắt là GEO-2000 đã được hơn 850 tác giả và
trên 30 cơ quan môi trường và các tổ chức khác của Liên hợp quốc phối hợp
biên soạn. Báo cáo đã phân tích hai xu hướng lớn khi loài người bước vào thiên
niên kỷ thứ ba. Đó là:
Thứ nhất: Các hệ sinh thái và sinh thái nhân văn toàn cầu bị đe dọa bởi sự mất
cân bằng sâu sắc trong năng suất và trong phân bố hàng hóa, dịch vụ. Sự khác
biệt sẽ ngày càng gia tăng giữa những người thu được lợi ích từ phát triển kinh
tế và công nghệ và những người không thu được lợi ích theo hai thái cực: sự
phồn thịnh và sự cùng cực đang đe dọa sự ổn định của toàn bộ hệ thống nhân
văn và môi trường toàn cầu.
Thứ hai: Thế giới đang ngày càng biến đổi trong đó những thành quả về môi
trường thu được nhờ công nghệ và những chính sách mới không theo kịp nhịp
độ và quy mô gia tăng dân số và phát triển kinh tế. Những thách thức mang tính
toàn cầu đó là:
• Khí hậu toàn cầu biến đổi và tần suất thiên tai gia tăng.
• Sự suy giảm tầng ozone (O3) ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con
người và các loài sinh vật trên Trái Đất.
• Tài nguyên đất, nước, rừng… bị suy thoái .
• Ô nhiễm môi trường đang xảy ra ở quy mô rộng.
• Sự gia tăng dân số không kiểm soát được gây ra xu hướng làm mất cân
bằng nghiêm trọng giữa dân số và môi trường.
• Sự suy giảm tính đa dạng sinh học trên Trái Đất.
1.2.2. Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu và giải quyết các vấn đề môi trường
Để duy trì được sự cân bằng của tự nhiên, đưa tất cả các hoạt động của con
người đạt hiệu quả tốt nhất, vừa phát triển kinh tế vừa hài hòa với tự nhiên thì
việc quy hoạch và quản lý lãnh thổ trên quan điểm sinh thái – môi trường là giải
pháp hữu hiệu nhất. Trong nghiên cứu, nhiều vấn đề môi trường đang đặt ra
cho chúng ta phải giải quyết và chúng ta có thể làm được nhiều việc trước khi
quá muộn đối với tài nguyên và môi trường. Vai trò của khoa học môi trường
không chỉ dừng lại ở việc xác định các vấn đề, các bức xúc mà còn tìm ra các
đề nghị, giải pháp và đánh giá các phương án giải quyết tiềm năng. Việc lựa
chọn, thực hiện phương án giải quyết nào luôn là chủ đề của các chính sách và
chiến lược của xã hội. Việc giải quyết thành công các vấn đề môi trường
thường bao gồm 5 bước cơ bản sau:
1. Đánh giá một cách khoa học, thu thập các thông tin, số liệu, xây dựng mô
hình dự báo.
2. Phân tích rủi ro: điều gì có thể xảy ra nếu hành động nào đó được thực
hiện, phân tích những hiệu ứng tiềm ẩn của những can thiệp.
3. Giáo dục cộng đồng: khi một sự lựa chọn cụ thể được tiến hành trong số
hàng loạt các hành động luân phiên thì phải được thông tin đến cộng
đồng.
4. Hành động chính sách: cộng đồng tự bầu ra các đại diện, lựa chọn tiến
trình hành động và thực thi hành động đó.
5. Hoàn thiện: quan trắc một cách cẩn thận và xem xét cả hai khía cạnh: liệu
vấn đề môi trường đã được giải quyết chưa? Và đánh giá hoàn thiện việc
lượng hóa ban đầu và tiến hành mô hình hóa vấn đề.
1.2.3. Khoa học môi trường trên thế giới và ở nước ta
Môi trường hình thành từ khi có sự hình thành của vũ trụ, môi trường có mặt
khắp mọi nơi. Nhưng phải đến những năm đầu của thế kỷ 18 ngành Môi trường
học mới được phôi thai. Điểm mốc có lẽ là sự xuất hiện những công trình khoa
học về “Vai trò của bồ hóng gây ung thư cho công nhân cạo khói”(1775). Công
trình này ghi nhận sự tác hại của công nghiệp lên sức khỏe và môi trường. Sau
đó những năm 60 – 70 của thế kỷ XX; các công trình về ozone, lỗ thủng tầng
ozone, về hiệu ứng nhà kính và các khí thải, về mưa acid… thì những nghiên
cứu về môi trường thực sự trở thành một ngành khoa học tổng hợp từ nhiều
ngành khoa học khác. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các ngành thổ
nhưỡng, tài nguyên nước, khí tượng thủy văn, sinh học, khoa học biển, nông
nghiệp, lâm nghiệp, hóa học, dân số học, kinh tế, khoa học quản lý…
Kể từ sau Hội nghị về bảo vệ môi trường ở Stockholm 1972, khoa học môi
trường ở trên thế giới phát triển mạnh mẽ. Những viện nghiên cứu môi trường
đã được thành lập, nhiều trường đại học đã xây dựng các khoa và bộ môn
chuyên ngành đào tạo cán bộ khoa học quản lý và công nghệ môi trường. Nhiều
tạp chí, sách giáo khoa, sách chuyên khảo về khoa học môi trường đã được
xuất bản. Nhiều tổ chức thế giới nghiên cứu khoa học về bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên, môi trường thành lập và hoạt động rộng rãi ở nhiều nước.
Gần đây là Hội nghị các nguyên thủ quốc gia về bảo vệ môi trường ở Rio de
Janeiro 1992 đã thảo ra Bản Hiến chương 21; hoạch định kế hoạch hành động
nhằm chú trọng vào hàng loạt vấn đề môi trường và phát triển với sự tham gia
của các chính phủ, các tố chức quốc tế và các nhóm đang đeo đuổi mục tiêu
phát triển bền vững. Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đã có Báo
cáo về hiện trạng môi trường toàn cầu năm 2002 (GEO-3) để chuẩn bị cho Hội
nghị Thượng đỉnh Trái Đất 2002, Rio + 10 đã đề ra chiến lược hành động toàn
cầu về bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên lâu bền, nhưng thế giới vẫn
chưa có tiến bộ nào đáng kể. Vì vậy tất yếu phải có sự phối hợp hành động. Khi
mà hiểm họa về sự tồn vong của loài người đã quá nhãn tiền, điều kiện sinh thái
bị hủy hoại, đất đai bị suy thoái, rừng rậm biến thành đồi trọc, thiếu nước ngọt,
không khí ô nhiễm đến ngạt thở, thiên tai xảy ra thường xuyên, bệnh do môi
trường làm hàng triệu người chết…. thì ngành khoa học môi trường có vai trò
quan trọng cấp thiết.
Ở nước ta, quán triệt Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 25/6/1998 về
“Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước”; và Quyết định số 1363/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ký
phê duyệt đề án “ Đưa các nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục
quốc dân”; Bộ GD& ĐT đã chỉ đạo các trường đại học, các viện, trung tâm
nghiên cứu và phát triển bám sát các mục tiêu về tăng cường công tác bảo vệ
môi trường để tổ chức, nghiên cứu và triển khai tích cực các ứng dụng khoa
học công nghệ trong bảo vệ môi trường, phục vụ giáo dục và đào tạo, phát triển
kinh tế - xã hội theo các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong
các năm qua, các trường đại học, viện, trung tâm nghiên cứu đã tham gia thực
hiện hàng trăm đề tài, dự án các cấp và thực hiện các hoạt động quan trắc,
phân tích môi trường phục vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Đến nay
đã có nhiều cơ sở (Viện, Trung tâm, Khoa) nghiên cứu và đào tạo về môi
trường trên cả nước.
“Tăng cường năng lực và đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu khoa học về công nghệ
môi trường nhằm đặt nền móng vững chắc để phát triển ngành môi trường, phục
vụ có hiệu quả các vấn đề về môi trường, đảm bảo cho việc phát triển kinh tế xã
hội bền vững. Xây dựng cơ sở nghiên cứu môi trường đủ khả năng đảm đương
nhiệm vụ nghiên cứu môi trường tầm quốc gia, tiến hành các chương trình
nghiên cứu các vấn đề bức xúc, trọng tâm, khuyến khích các nghiên cứu bảo vệ
môi trường” (Báo cáo hiện trạng môi trường 2001, Bộ KH, CN&MT).
Chương 2: CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA SINH THÁI HỌC VÀ KHOA HỌC
MÔI TRƯỜNG
Sinh vật và môi trường
Môi trường sống của con người là cả vũ trụ bao la, trong đó Hệ Mặt Trời và Trái
Đất (kể cả Mặt Trăng và các hành tinh khác) là thành phần ảnh hưởng trực tiếp
nhất. Trong môi trường sống luôn có sự tác động qua lại của các thành phần vô
sinh và hữu sinh.
Về mặt vật lý, Trái Đất được chia thành các quyển sau:
Thạch quyển (Lithosphere), còn gọi là môi trường đất bao gồm vỏ Trái Đất dày
khoảng 60 - 70 km trên mặt đất và 2 - 8 km dưới đáy biển. Thành phần vật lý và
tính chất hóa học của thạch quyển nhìn chung là ít biến đổi và có ảnh hưởng
lớn đến sự sống trên mặt địa cầu. Đất trồng trọt, rừng, khoáng sản… là những
tài nguyên đang được con người khai thác triệt để dẫn đến nguy cơ cạn kiệt.
Thủy quyển (Hydrosphere) còn gọi là môi trường nước bao gồm đại dương,
biển, sông, hồ, ao, suối, nước ngầm dưới đất, băng tuyết và hơi nước (kể cả
thành phần nước trong tế bào sinh vật).
Khí quyển (Atmosphere) còn gọi là môi trường khí bao gồm lớp không khí bao
quanh bề mặt và cả hai đầu Trái Đất (kể cả hơi khí hòa tan trong nước, trong
sinh vật, trong lòng đất). Không khí có khối lượng khoảng 0,0001% khối lượng
Trái Đất. Từ mặt đất lên cao; khí quyển được chia thành nhiều lớp, tầng.
Về mặt sinh học, Trái Đất còn gọi là sinh quyển (Biosphere) bao gồm các cơ thể
sống và cùng với nhiều thành phần khác của quyển vật lý tạo nên môi trường
sống cho sinh vật và con người. Các thành phần này luôn tác động tương hỗ
với nhau. Ví dụ: CO2 và O2 phụ thuộc vào mức độ sinh tồn của thực vật và khả
năng hòa tan trong nước của chúng. Sinh quyển không có giới hạn rõ rệt vì nằm
trong tất cả các quyển vật lý và không liên tục vì chỉ tồn tại và phát triển trong
điều kiện môi trường nhất định.
Ngoài vật chất và năng lượng, trong sinh quyển còn có thông tin với tác dụng
duy trì cấu trúc và cơ chế tồn tại phát triển các vật sống. Dạng thông tin phức
tạp và cao cấp nhất là trí tuệ con người; có tác động ngày càng mạnh mẽ đến
sự tồn tại, phát triển trên Trái Đất.
2.1.1. Các nhân tố sinh thái và nhân tố môi trường
Trong thiên nhiên, các nhóm thực vật, động vật từ bậc thấp đến bậc cao thường
sống chung với nhau, liên kết với nhau bởi nhiều mối quan hệ mà chủ yếu là
quan hệ về phân bổ và dinh dưỡng, tức là mối quan hệ mà trong đó luôn diễn ra
cuộc đấu tranh về không gian sống và thức ăn. Quan hệ đó được gọi là quan hệ
sinh thái.
Phân loại các nhân tố sinh thái: Số lượng các nhân tố sinh thái ngày càng nhiều
và tác động một cách tổng hợp chứ không riêng rẽ đến hoạt động của mọi sinh
vật.
* Theo nguồn gốc và đặc trưng tác động của các nhân tố sinh thái người ta
phân chia ra một số nhân tố chủ yếu như sau:
• Các nhân tố vô sinh:
o Khí hậu: ánh sáng, nhiệt độ, không khí (bao gồm thành phần các
khí, nồng độ và sự chuyển động của không khí - gió), nước (các
dạng nước, độ ẩm. . .)
o Thổ nhưỡng: thành phần cơ giới, hóa học, tính chất vật lý của đất.
o Địa hình: độ cao, độ dốc, hướng phơi…
Đối với sinh vật ở nước thì các nhân tố sinh thái được xác định bởi tính chất
của môi trường nước.
• Các nhân tố hữu sinh:
o Thực vật
o Động vật.
o Nhân tố con người.
Con người là một thực thể sinh học tồn tại trong tổng thể các mối quan hệ hài
hòa với nhau. Về bản chất, con người được tạo nên từ những đơn vị nhỏ nhất
là các tế bào sống. Các tổ chức, cơ quan, bộ máy cơ thể đảm nhiệm những
chức năng nhất định trong mối quan hệ thống nhất, toàn vẹn của cơ thể, đảm
bảo sự sống của con người. Từ khi sinh ra, lớn lên, già đi; con người luôn tồn
tại trong môi trường tự nhiên và xã hội, luôn chịu tác động qua lại với môi
trường từ nhiều phía. Cũng là sinh vật nhưng con người tác động vào thiên
nhiên một cách có ý thức và với mức độ ngày càng lớn.
* Theo các nhân tố lệ thuộc và độc lập với mật độ
• Yếu tố không phụ thuộc mật độ là yếu tố khi tác động lên sinh vật, ảnh
hưởng của nó không phụ thuộc vào mật độ củ