I. KHÁI NIỆM
1. Quan niệm của các môn khoa học xã hội về cơ cấu xã
hội
- Quan điểm của Triết học xã hội: Triết học xã hội hay
chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét cơ cấu xã hội chủ yếu là thông
qua góc độ tiếp cận của quan niệm về hình thái kinh tế - xã hội
của Marx. Triết học coi hình thái kinh tế - xã hội với những bộ
phận cấu thành cơ bản của nó như cơ sở hạ tầng, kiến trúc
thượng tầng, quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất. đó là các bộ
phận tạo thành cơ cấu xã hội. Đó chính là bộ “khung” bộ “dàn”
mà chỉ cần đắp “da” đắp “thịt” là sẽ có một cơ thể xã hội sinh
động. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không coi cơ cấu xã hội là đối
tượng nghiên cứu trực tiếp của nó mà nó nghiên cứu các mối
quan hệ cơ bản giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, nghiên cứu
các quy luật chung nhất của xã hội. Mục đích chủ yếu của chủ
nghĩa duy vật lịch sử là nhằm vạch ra được những sự phụ thuộc
mang tính nhân quả của tất cả các mặt, các bộ phận đã cấu thành
nên cơ cấu xã hội vào phương thức sản xuất vào nhân tố kinh tế
(sản xuất ra của cải vật chất) và nó coi đó là tư tưởng nền tảng
của xã hội, là nhân tố cở bản nhất của thế giới quan duy vật khi
vận dụng để xem xét xã hộ
48 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số chuyên ngành xã hội học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
87 88
Phần II
MỘT SỐ CHUYÊN NGÀNH
XÃ HỘI HỌC
Bài 6
XÃ HỘI HỌC VỀ CƠ CẤU XÃ HỘI
I. KHÁI NIỆM
1. Quan niệm của các môn khoa học xã hội về cơ cấu xã
hội
- Quan điểm của Triết học xã hội: Triết học xã hội hay
chủ nghĩa duy vật lịch sử xem xét cơ cấu xã hội chủ yếu là thông
qua góc độ tiếp cận của quan niệm về hình thái kinh tế - xã hội
của Marx. Triết học coi hình thái kinh tế - xã hội với những bộ
phận cấu thành cơ bản của nó như cơ sở hạ tầng, kiến trúc
thượng tầng, quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất... đó là các bộ
phận tạo thành cơ cấu xã hội. Đó chính là bộ “khung” bộ “dàn”
mà chỉ cần đắp “da” đắp “thịt” là sẽ có một cơ thể xã hội sinh
động. Chủ nghĩa duy vật lịch sử không coi cơ cấu xã hội là đối
tượng nghiên cứu trực tiếp của nó mà nó nghiên cứu các mối
quan hệ cơ bản giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, nghiên cứu
các quy luật chung nhất của xã hội. Mục đích chủ yếu của chủ
nghĩa duy vật lịch sử là nhằm vạch ra được những sự phụ thuộc
mang tính nhân quả của tất cả các mặt, các bộ phận đã cấu thành
nên cơ cấu xã hội vào phương thức sản xuất vào nhân tố kinh tế
(sản xuất ra của cải vật chất) và nó coi đó là tư tưởng nền tảng
của xã hội, là nhân tố cở bản nhất của thế giới quan duy vật khi
vận dụng để xem xét xã hội.
- Quan điểm của môn Chủ nghĩa xã hội khoa học
Bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học không nghiên cứu
cơ cấu xã hội nói chung mà chỉ nghiên cứu một loạt cơ cấu xã
hội hội đặc thù. Đó là cơ cấu xã hội của hình thái kinh tế xã hội
cộng sản và bước qúa độ đến xã hội đó. Khi nghiên cứu cơ cấu
xã hội, chủ nghĩa xã hội - khoa học chỉ nhấn mạnh và tập trung
phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp, còn các nội dung khác của cơ
cấu xã hội thì chỉ đề cập đến nó trong một chừng mực nhất định.
- Quan điểm của môn Chính trị học
Chính trị học cũng nghiên cứu cơ cấu xã hội. Song mục
đích của nó là nhằm vạch ra được những tác động và ảnh hưởng
của các đặc trưng và xu hướng biến động của cơ cấu xã hội -
giai cấp đến các phân hệ cơ cấu xã hội khác cũng như những
mặt hoạt động cơ bản của đời sống chính trị xã hội.
2. Quan điểm của xã hội học về cơ cấu xã hội
Trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan niệm và định
nghĩa rất khác nhau về cơ cấu xã hội và cách tiếp cận nghiên
cứu khác nhau về khái niệm cơ cấu xã hội.
* Có quan niệm cho rằng khái niệm cơ cấu xã hội có
liên quan đến khái niệm hệ thống xã hội. Nó gồm hai thành tố
cơ bản đó là thành phần xã hội và những liên hệ xã hội, thành
phần xã hội là tập hợp các bộ phận, các nhóm, các giai cấp, các
cộng đồng xã hội tạo thành cơ cấu xã hội. Thành tố thứ hai là
89 90
những liên hệ xã hội, đó là sự tập hợp của những mối liên hệ,
những mối quan hệ gắn kết các thành phần xã hội tạo ra cơ cấu
xã hội. Vì vậy cơ cấu xã hội một mặt nó bao hàm các thành phần
xã hội, mặt khác nó bao hàm những liên hệ xã hội, gắn kết tất cả
các bộ phận khác nhau hợp thành phạm vi tác động và đặc tính
của cơ cấu xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định.
Theo Từ điển Xã hội học tóm tắt (của Liên Xô):
Cơ cấu xã hội là tổng thể các nhóm xã hội có liên hệ,
tác động qua lại với nhau, cũng như các thiết chế xã hội và các
mối quan hệ của chúng. Cơ chế tồn tại và phát triển của cơ cấu
xã hội chứa đựng trong hệ thống hoạt động của con người.
* Quan điểm của Roberson nhà Xã hội học Mỹ cho rằng:
Cơ cấu xã hội là mô hình của các quan hệ giữa các
thành phần cơ bản trong một hệ thống xã hội. Những thành phần
này tạo nên một bộ khung cho tất cả các xã hội loài người. Mặc
dù tính chất của các thành phần và các mối quan hệ của chúng
luôn biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần
quan trọng nhất của cơ cấu xã hội là vị trí, vai trò, nhóm và các
thiết chế.
* Quan niệm về cơ cấu xã hội của một số nhà xã hội học hiện
nay:
Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong
của một hệ thống xã hội nhất định, biểu hiện như là một sự
thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối liên hệ,
các thành phần cơ bản nhất của hệ thống xã hội đó. Những thành
tố tạo ra bộ khung cho tất cả các xã hội loài người, những thành
tố cơ bản đó là vai trò, vị thế, nhóm và các thiết chế.
Như vậy khi định nghĩa cơ cấu xã hội cần phải chú ý ba
đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Nó không chỉ xem xét cơ cấu xã hội như là
một tổng thể, một tập hợp các bộ phận (cộng đồng, các tầng lớp,
các giai cấp ...” đã tạo thành nên xã hội mà cơ cấu xã hội còn
được xem xét ở mặt kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của
một hệ thống xã hội nhất định. Có nghĩa là nó phải trả lời được
hai câu hỏi:
- Xã hội được cấu thành bao gồm những thành tố nào?
Nó được cấu thành như thế nào? Theo kiểu gì?
- Cách thức sắp xếp và sự liên kết giữa các bộ phận, các
thành tố với nhau ra sao?
Thứ hai: là nó coi cơ cấu xã hội như là một sự thống
nhất của hai mặt. Các thành phần xã hội và các mối liên hệ xã
hội, là sự phản ánh đúng đắn nhân tố hiện thực đã tạo thành nên
cơ cấu xã hội. Quan niệm này khắc phục cách nhìn phiến diện là
quy cơ cấu xã hội vào các quan hệ xã hội, khắc phục cách nhìn
tách rời giữa cơ cấu xã hội và quan hệ xã hội. Thực ra các quan
hệ xã hội hay các mối liên hệ xã hội chỉ là một mặt đã cấu thành
nên cơ cấu xã hội mà nó luôn là sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt. Sự vận động và biến đổi của cơ cấu xã hội luôn có
nguồn gốc từ sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt, các mối
liên hệ, các yếu tố đã cấu thành nên cơ cấu xã hội.
Thứ ba: Nó coi cơ cấu xã hội là bộ khung, bộ dàn để
xem xét xã hội. Từ bộ khung, bộ dàn đó mà ta biết được một xã
hội cụ thể được tạo thành từ nhóm xã hội nào, nhóm lớn hay
nhóm nhỏ, như một nước, một dân tộc, một giai cấp, một chính
đảng hay một xí nghiệp, một cơ quan, một lớp học. Và cũng
thông qua bộ khung đó mà biết được vị thế tức là chỗ đứng của
từng cá nhân, từng nhóm xã hội, trong xã hội biết được vai trò
của các cá nhân, các nhóm xã hội và thiết chế xã hội. Có nghĩa
là cách tổ chức của các hoạt động xã hội và các quan hệ xã hội
nhằm đảm bảo sự ăn khớp của các hành vi của các cá nhân và
các nhóm xã hội với các chuẩn mực xã hội và giá trị xã hội, để
91 92
đảm bảo cho xã hội vận hành một cách bình thường, ổn định và
phát triển.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu Xã hội học về cơ cấu xã hội
Việc nghiên cứu cơ cấu xã hội có một ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với việc lãnh đạo và quản lý xã hội.
Nó trang bị những tri thức cơ bản để hiểu được sự hình
thành các đặc trưng và các mối quan hệ của các giai cấp, các
nhóm xã hội khác nhau. Trên cơ sở đó giúp Đảng và Nhà nước
đề ra được các quyết định chính trị kinh tế, văn hóa xã hội phù
hợp với thực tiễn, phát huy được tiềm năng của con người nhằm
hướng vào các mục tiêu đã được hoạch định, thông qua đó mà
hoàn thiện công tác quản lý và hoàn thiện cơ cấu xã hội.
Ở Việt Nam, cơ cấu xã hội có một ý nghĩa hết sức quan
trọng, nó cho chúng ta một bức tranh tổng quát, một bộ khung,
bộ dàn về xã hội, từ đó mà vạch ra được chiến lược xây dựng
mô hình cơ cấu xã hội tối ưu. Nghiên cứu cơ cấu xã hội, đặc biệt
là nghiên cứu sự phân tầng xã hội nó cho phép đi sâu vào phân
tích thực trạng xã hội, nhận diện được một cách chân thực
những đặc trưng và xu hướng phát triển của đất nước, từ đó có
cơ sở khoa học để vạch ra những chính sách xã hội phù hợp với
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể ở nước ta, và từ đó có thể quản lý,
điều hành xã hội một cách có hiệu quả hướng tới mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong
những năm gần đây, cùng với sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là
bước qúa độ chuyển biến từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường, trong cơ cấu xã hội đã có những sự
biến đổi căn bản ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để
chủ động đưa sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu cao
hơn nữa, hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã và đang triển khai
một loạt công trình nghiên cứu khoa học về tất cả các lĩnh vực
đang đặt ra trong sự nghiệp đổi mới, trong đó có nghiên cứu
những đặc trưng và xu hướng chuyển đổi của cơ cấu giai cấp
trong điều kiện hiện nay.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƠ CẤU XÃ HỘI
1. Cơ cấu xã hội - giai cấp
Khi xem xét cơ cấu xã hội - giai cấp phải xem xét nó ở
hai khía cạnh: một là xem xét không chỉ các giai cấp mà cả các
tập đoàn xã hội, mặt khác cần nhấn mạnh và nêu rõ những tập
đoàn người hợp thành các giai cấp cơ bản của cơ cấu xã hội -
giai cấp chiếm vị trí quyết định đối với toàn bộ các tầng lớp và
tập đoàn xã hội khác, có vị trí quyết định đến sự phát triển và
biến đổi của cơ cấu xã hội.
Cơ cấu xã hội giai cấp là một hệ thống phức tạp tồn tại
tương đối độc lập, gắn liền với sự tồn tại của xã hội là sản xuất
ra của cải vật chất và các mối quan hệ xã hội của con người, nó
là hạt nhân quyết định sự biến đổi của cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã
hội là một hệ thống bao gồm các nhóm xã hội khác nhau.
Như vậy, cơ cấu xã hội giai cấp bao gồm các nhóm xã
hội khác nhau, các nhóm xã hội này có địa vị khác nhau trong
một hệ thống sản xuất xã hội, có quan hệ khác nhau đối với tư
liệu sản xuất. Căn cứ vào đó mà chia xã hội thành các giai cấp
và tầng lớp xã hội khác nhau.
Ở nước ta hiện nay cơ cấu xã hội - giai cấp mang ba
đặc điểm cơ bản:
* Tính chất Xã hội chủ nghĩa: Tính chất này được biểu
hiện trước hết ở sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xác định hướng
phát triển của cơ cấu xã hội giai cấp là theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do
93 94
dân và vì dân. Khối liên minh Công - Nông - Trí là nền tảng của
cơ cấu xã hội giai cấp, nền tảng của xã hội;
* Cơ cấu xã hội giai cấp còn phát triển chậm biểu hiện
ở chỗ giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo chiếm một tỷ lệ
lao động lớn trong dân cư. Trong khi giai cấp công nhân và trí
thức còn chiếm tỷ lệ thấp;
* Cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta mang tính quá độ.
Đó là một đặc trưng của cơ cấu xã hội giai cấp trong thời kỳ
chuyển hóa, có sự biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc các thành phần
xã hội, có sự phân hóa các tầng lớp xã hội trong quá trình hình
thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý
và điều tiết của Nhà nước.
Cơ cấu xã hội giai cấp ở nước ta hiện nay bao gồm 7
nhóm:
- Công nhân, viên chức chiếm tỷ lệ 10,27%
- Nông dân và thợ thủ công 30,08%
- Quân nhân - lực lượng vũ trang 2,37%
- Trí thức (kể cả học sinh, sinh viên) 13,52%
- Kinh doanh cá thể và tư nhân 20,43%
- Nhóm người được xã hội bảo trợ 5,90%
- Các nhóm chưa xác định 17,43 %.
Nguồn: Cương lĩnh đổi mới và phát triển, Viện Mác -
Lê nin, NXB Thông tin - Lý luận, H. 1991, Tr.140).
Giai cấp công nhân
Trong xã hội hiện đại giai cấp công nhân giữ vị trí
trung tâm trong cơ cấu xã hội. Trong thời kỳ qúa độ lên Chủ
nghĩa xã hội, giai cấp công nhân là lực lượng lao động nền tảng
của xã hội, là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, chủ đạo, trung tâm
trong quá trình biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội, là giai cấp tiên
phong trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Hiện nay
giai cấp công nhân phát triển nhanh cả về số lượng và chất
lượng, luôn gắn với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước, gắn với quá trình phát triển ngành nghề đa dạng phong
phú theo sự phân công lao động mới, gắn với quá trình đưa nước
ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công
nghiệp phát triển. Đồng thời đó cũng là quá trình không ngừng
nâng cao trình độ khoa học và kỹ thuật nghề nghiệp của giai cấp
công nhân, là quá trình trí thức hóa công nhân, xuất hiện tầng
lớp công nhân trí thức.
Giai cấp nông dân
Nông dân là lực lượng lao động trên mặt trận nông
nghiệp xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu, một nước kinh
tế chậm phát triển. Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì
nông dân là một lực lượng đông đảo, lực lượng to lớn chiếm
66,8% lực lượng lao động xã hội. Họ vẫn là lực lượng cơ bản
của nền sản xuất xã hội trong thời kỳ quá độ xây dựng Chủ
nghĩa xã hội.
Tuy nhiên giai cấp nông dân có xu hướng giảm tương
đối vì ba lý do:
- Việc xâm nhập mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện
đại vào nông nghiệp làm cho nông dân có sự thay đổi lớn trong
đặc tính lao động và ngành nghề. Đã có một bộ phận nông dân
chuyển sang các ngành nghề khác theo sự phát triển của nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới Chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, nông dân một lực lượng lớn không ngừng bổ sung cho giai
cấp công nhân, cho lực lượng lao động nông nghiệp trong sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
- Về cơ cấu giai cấp - xã hội của giai cấp nông dân
cũng luôn thay đổi, một bộ phận nông dân đã trở thành nông dân
95 96
tập thể sản xuất trong các hợp tác xã, các tập thể lao động sản
xuất khác. Một bộ phận khác thì chuyển sang lực lượng tiểu
công nghiệp và công nghiệp theo sự phát triển ngành nghề của
nông nghiệp ở nông thôn. Hơn nữa do sự phát triển của khoa
học kỹ thuật vào lĩnh vực nông nghiệp thì đội ngũ công nhân
nông nghiệp ngày càng tăng.
- Những trí thức mới, những cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý, những nhà kinh doanh xuất thân từ nông dân càng ngày
càng tăng làm cho trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ
lãnh đạo quản lý của nông dân ngày càng phát triển.
Ba xu thế trên phản ánh xu thế chung của sự phát triển
xã hội hiện đại. Đó cũng là xu thế thành thị hóa nông thôn làm
cho nông thôn xích lại gần thành thị. Đó cũng là con đường xây
dựng nông thôn mới dưới Chủ nghĩa xã hội.
Trí thức
Hiểu theo nghĩa rộng, trí thức là những người chủ yếu
làm lao động trí óc, nghĩa hẹp thì họ là những người lao động trí
óc có trình độ học vấn cao. Trí thức không phải là một giai cấp
mà là một tập đoàn xã hội, trong trí thức có những người thuộc
các giai cấp khác nhau. trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã
hội, trí thức là một lực lượng lao động quan trọng, là một tài sản
quý, một động lực cơ bản của sự phát triển đất nước. Đảng ta
xác định khối liên minh Công - Nông - Trí là nền tảng của xã
hội. Khi khoa học kỹ thuật càng phát triển thì vai trò của trí thức
càng quan trọng. Ở nước ta trí thức phát triển nhanh cả về số
lượng và chất lượng theo xu hướng đưa nước ta trở thành một
nước phát triển có nền công nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa
học kỹ thuật tiên tiến.
Ngoài ra, khi nghiên cứu cơ cấu giai cấp - xã hội, Xã
hội học còn quan tâm nghiên cứu các thành phần xã hội khác
như tư sản, tiểu tư sản, dân nghèo thành thị... Trong điều kiện
hiện nay, chúng ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đòi
hỏi các nhà Xã hội học phải đầu tư nhiều hơn để giải đáp và làm
rõ các vấn đề trong sự biến đổi và phát triển của cơ cấu giai cấp
- xã hội ở nước ta hiện nay.
2. Cơ cấu nghề nghiệp - xã hội
Cơ cấu nghề nghiệp xã hội là sự phân công lao động xã
hội. Đó là sự chuyên môn hóa ngành nghề của các nhóm xã hội,
các tập đoàn xã hội thực hiện những chức năng lao động của
mình trong khuôn khổ của một tổ chức sản xuất xã hội nói
chung, của một tổ chức sản xuất hay phi sản xuất của một ngành
nào đó trong toàn bộ nền kinh tế xã hội nói riêng. Nếu cơ cấu
giai cấp xã hội là sự phân chia xã hội thành các giai tầng theo
chiều ngang của cơ cấu xã hội thì cơ cấu nghề nghiệp xã hội là
sự phân chia cơ cấu xã hội theo chiều ngang.
Đặc trưng của sự phân công lao động trong thời kỳ quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội gồm hai đặc trưng: trong điều kiện của
Chủ nghĩa xã hội thì tính chất không đồng nhất về kinh tế - xã
hội của lao động vẫn tồn tại. Đặc biệt là trong thời kỳ quá độ
vẫn còn tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất còn khác nhau, do vậy còn có sự phân
biệt về tính chất và nội dung của lao động. Đặc trưng thứ hai của
sự phân công lao động là vẫn còn có sự khác biệt chuyên môn
nghề nghiệp. Do vậy cần phải nhận thức rõ về mối quan hệ giữa
hai sự khác biệt này.
Khuynh hướng cơ bản để phát triển cơ cấu nghề nghiệp
- xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất quyết định. Nó được biểu hiện ở ba điểm chính sau đây:
97 98
Thứ nhất, khuynh hướng phân hóa các loại lao động do
sự chuyên môn hóa ngày càng sâu trong mỗi ngành nghề, là do
khoa học, công nghệ ngày càng thâm nhập sâu rộng vào các lĩnh
vực, các ngành nghề khác nhau của sản xuất và đời sống;
Thứ hai, sự liên kết giữa các ngành đã làm nảy sinh các
ngành nghề mới. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
dẫn đến việc trí thức hóa lao động, ngày càng nâng cao trình độ trí
thức của người lao động;
Thứ ba, bản thân quan hệ sản xuất cũng có sự thay đổi
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, đã hình thành một số
ngành nghề mới mà trước kia chưa có, nhất là trong khu vực dịch
vụ - xã hội mang tính tư nhân.
Tóm lại: Quá trình phân hóa trong sự phân công lao
động xã hội không chỉ đưa đến sự phân hóa mà còn dẫn tới sự
đồng nhất về kinh tế - xã hội, sự xích lại gần nhau về trình độ
học vấn, văn hóa, lối sống và mức độ thu nhập giữa các nhóm
nghề nghiệp xã hội khác nhau. Vì vậy, Xã hội học luôn quan
tâm và phát hiện mối quan hệ biện chứng giữa những khuynh
hướng biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội và cơ cấu nghề
nghiệp - xã hội, để từ đó quan tâm đến vấn đề Người lao động
trong nền kinh tế thị trường. Nguồn cung cấp lao động và giải
quyết việc làm sẽ ảnh hưởng lớn đến cơ cấu giai cấp xã hội cũng
như sự chuyển dịch dân cư.
Ở nước ta hiện nay có một thực tế là dân số thì tăng quá
nhanh trong điều kiện nền kinh tế chậm phát triển, vì vậy người
lao động đã không được dung nạp hết càng làm tăng đội ngũ
những người thất nghiệp, từ đó dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội
khác. Vấn đề chất lượng lao động của nguồn lao động nước ta
hiện nay thể hiện số thợ giỏi có tay nghề chuyên môn cao rất ít,
số đông chưa có việc làm, không có nghề nghiệp thì trình độ văn
hóa thấp (một số mù chữ). Từ đó vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động là hết sức khó khăn. Nhà nước muốn điều chỉnh
được cơ cấu giai cấp - xã hội theo hướng có lợi cho quốc kế dân
sinh nhất thiết phải quan tâm, phải có những biện pháp, chính
sách giải quyết việc làm cho người lao động.
3. Cơ cấu nhân khẩu - xã hội
Cơ cấu nhân khẩu - xã hội là một trong những nội dung
cơ bản của cơ cấu xã hội. Qua nghiên cứu cơ cấu nhân khẩu xã
hội. Xã hội học có thể dự báo được quy mô biến đổi và những
đặc trưng xu hướng xã hội, qua đó rút ra được một số vấn đề
liên quan đến số lượng và chất lượng của cuộc sống con người
trong xã hội. Cơ cấu nhân khẩu - xã hội đòi hỏi phải chia một
cách khách quan xã hội thành các tập đoàn theo những đặc
trưng: Lứa tuổi và giới tính.
Tập đoàn xã hội theo lứa tuổi từ trẻ đến già bao gồm
thiếu nhi, thiếu niên, thanh niên, trung niên, người cao tuổi.
Tập đoàn xã hội theo giới tính: nam giới và nữ giới.
Tập đoàn nam giới gồm: nam thiếu nhi, nam thiếu niên,
nam thanh niên, nam trung niên, ông già. Còn tập đoàn xã hội
nữ giới bao gồm: nữ thiếu nhi, nữ thiếu niên, nữ thanh niên, nữ
trung niên và bà già.
Nếu không xác định được những quy luật phát triển của
cơ cấu nhân khẩu xã hội cũng như những thay đổi diễn ra trong
các tập đoàn xã hội thì không thể xác định đúng đắn con đường
phát triển kinh tế xã hội trên phạm vi quốc gia cũng như phạm vi
từng khu vực. Sự thay đổi của những tham số cơ bản như mức
độ sinh đẻ, mức độ bệnh tật, tử vong và mức độ di dân quyết
định quy mô và thành phần của các nguồn lao động trong tương
lai, quyết định sự phân phối các nguồn lao động cho các khu vực
kinh tế, đồng thời kèm theo đó là khối lượng và cơ cấu quỹ tiêu
99 100
dùng, quy mô và tính chất của dịch vụ, xây dựng nhà ở và các
công trình công cộng.
Nghiên cứu cơ cấu nhân khẩu - xã hội, Xã hội học phát hiện
ra những mối liên hệ và sự phụ thuộc có tính chất quy luật giữa các
quá trình nhân khẩ