Trong bài báo này tác giảtóm tắt tình hình nghiên cứu biển của Việt Nam,
khái quát tầm quan trọng của biển và đảo bao bọc xung quanh Việt Nam, phân tích lý
do và sựcần thiết của nghiên cứu biển và đềxuất một sốý kiến nhằm thúc đẩy
nghiên cứu biển ởViệt Nam. Việt Nam là một quốc gia có biển đảo bao bọc dọc theo
chiều dài. Biển, đảo và khai thác các nguồn tài nguyên biển đảo góp phần to lớn vào
công cuộc phát triển kinh tếvà đảm bảo an ninh của các quốc gia ven biển. Tình
trạng nghiên cứu biển và đảo của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, chúng ta chưa có
đội ngũnghiên cứu tầm cỡthếgiới, trên diễn đàn quốc tếvắng bóng các nhà khoa
học Việt Nam nghiên cứu vềbiển đảo. Việt Nam cũng chưa có được các cơsởdữliệu
đầy đủchính xác vềbiển đảo đểphục vụcho chiến lược phát triển kinh tếvà bảo vệ
an ninh quốc phòng. Đã đến lúc chúng ta cần phải đặt vấn đềnghiên cứu biển đảo và
tìm ra những giải pháp thúc đẩy nghiên cứu biển đảo ởViệt Nam.
14 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đề nghị thúc đẩy nghiên cứu kinh tế biển ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số đề nghị thúc đẩy nghiên cứu biển ở Việt Nam1
Nguyễn Đức Hùng(*)
(*) Department of Maritime Engineerring
Australian Maritime College (Newnham Campus)
PO BOX 986, Newnham, Launceston Tas 7250 Australia
Email: H.Nguyen@amc.edu.au
Tóm tắt: Trong bài báo này tác giả tóm tắt tình hình nghiên cứu biển của Việt Nam,
khái quát tầm quan trọng của biển và đảo bao bọc xung quanh Việt Nam, phân tích lý
do và sự cần thiết của nghiên cứu biển và đề xuất một số ý kiến nhằm thúc đẩy
nghiên cứu biển ở Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia có biển đảo bao bọc dọc theo
chiều dài. Biển, đảo và khai thác các nguồn tài nguyên biển đảo góp phần to lớn vào
công cuộc phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh của các quốc gia ven biển. Tình
trạng nghiên cứu biển và đảo của Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn, chúng ta chưa có
đội ngũ nghiên cứu tầm cỡ thế giới, trên diễn đàn quốc tế vắng bóng các nhà khoa
học Việt Nam nghiên cứu về biển đảo. Việt Nam cũng chưa có được các cơ sở dữ liệu
đầy đủ chính xác về biển đảo để phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế và bảo vệ
an ninh quốc phòng. Đã đến lúc chúng ta cần phải đặt vấn đề nghiên cứu biển đảo và
tìm ra những giải pháp thúc đẩy nghiên cứu biển đảo ở Việt Nam.
Từ khóa: biển, đảo, hàng hải, đóng tàu, kinh tế biển.
1. Giới thiệu
Việt Nam là một quốc gia ven biển, nằm ở khu vực trung tâm Đông Nam Á. Việt Nam có chiều
dài trải dọc theo bờ biển từ Vịnh Bắc Bộ ở phía đông bắc tới Vịnh Thái Lan ở phía tây nam. Với
vị trí địa lý nằm gần biển, Việt Nam có tiềm năng phát triển một nền kinh tế toàn diện dựa trên
một phần vào công nghiệp khai thác biển và giao thông biển. Trên thế giới, nhiều quốc gia ven
biển và nhiều thành phố ven biển đã trở thành những trung tâm công nghiệp và thương mại, cảng
quốc tế. Đáng lẽ Việt Nam chúng ta cũng phải có những thành phố công thương nghiệp rất phát
triển và sầm uất nằm ven biển dọc theo bờ biển Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, có nhiều truyền thuyết về biển và đời sống sinh hoạt trên biển của người
Việt Nam. Truyền thuyết Âu Cơ Lạc Long Quân là một ví dụ. Nước Việt Nam nằm trải dài bên
bờ Thái Bình Dương, trong lục địa lại nhiều sông ngòi, cho nên lịch sử dân tộc cũng gắn liền với
lịch sử chinh phục biển cả, hoạt động hàng hải và đánh bắt tôm cá thủy hải sản phục vụ đời sống.
Trong lịch sử cũng có nhiều cuộc chiến thắng chống quân xâm lược bằng thủy quân. Liệu chúng
ta có thể tìm được những bằng chứng và dấu vết chứng minh được Việt Nam chúng ta đã từng có
1 Những ý kiến trong bài này không phản ánh quan điểm của Trường Hàng hải Australia.
một lịch sử hàng hải và đóng tàu thuyền oai hùng với những đội thủy quân mạnh để có thể đánh
lui giặc ngoại xâm? Nếu có thì những bằng chứng đó nằm ở đâu?
Đa số các sách sử Việt Nam như “Việt Nam Sử Lược”, “Việt Sử Toàn Thư”, “Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư” v.v… đều viết về lịch sử Việt Nam từ thời thượng cổ, và bắt đầu lịch sử bằng Thời
Hồng Bàng, thời điểm khoảng 3000 năm trước CN, tức cách đây khoảng 5000 năm. Qua những
sách sử đó, người Việt Nam chúng ta thường tự hào có 5000 năm lịch sử. Nhưng chúng ta muốn
biết trước 5 nghìn năm đó, dân tộc Việt chúng ta từ đâu đến và chúng ta đã từng làm gì để xây
dựng lên một đất nước Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho đến ngày nay? Có phải dân tộc Việt
Nam đã từng có một nền văn minh dựa trên việc trồng lúa nước và những hoạt động hàng hải trên
biển hay không? Đó là những câu hỏi khó có câu trả lời chính xác.
Gần đây cuốn sách “Địa đàng ở Phương Đông” của tác giả Oppenheimer đã gây dư luận lớn
trong giới nghiên cứu. Cuốn sách đưa ra giả thuyết rằng nôi của nền văn minh Đông Nam Á
chính là Biển Đông, bao gồm cả Vịnh Bắc Bộ và khu vực Biển Đông Việt Nam. Nếu những giả
thuyết trên có cơ sở đúng, thì Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông không những chứa đựng nhiều nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú, mà còn có thể chứa đựng cả những chứng cứ lịch sử về nguồn
gốc dân tộc Việt nói riêng và nguồn gốc các dân tộc sống ở vùng Đông Nam Á nói chung. Do
vậy chúng ta cần có những nghiên cứu thích hợp để tìm về cội nguồn dân tộc. Trong các nghiên
cứu đó, chúng ta cần có những nghiên cứu nghiêm túc và có hệ thống về biển, lịch sử hàng hải và
đóng tàu của Việt Nam.
Thực trạng nghiên cứu về biển của Việt Nam ngày nay còn cực kỳ khiêm tốn, chúng ta chưa có
nhiều nghiên cứu về biển một cách hệ thống và có phương pháp. Nhận xét về thực trạng nghiên
cứu biển của Việt Nam, một bài báo đăng trên báo Lao Động số 259 ngày 29/9/2002 viết “Nghiên
cứu biển Việt Nam vẫn tụt hậu hàng chục năm so với thế giới. 20 năm qua, mỗi năm được đầu tư
khoảng 10 tỉ đồng, với bao nhiêu đề tài, nhưng kết quả chẳng được là bao.” Bài báo viết
thêm :”Vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam rộng hơn một triệu km vuông, lớn hơn gấp 3
lần so với lãnh thổ. Trong đó bờ biển dài hơn 3.260km, có hơn 3.000 hòn đảo mà nổi tiếng là
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy vậy một thực tế đáng buồn là dù nghị quyết của Bộ chính
trị đã nêu:”Phải xây dựng Việt Nam thành một quốc gia biển mạnh”, song nghiên cứu biển của
Việt Nam vẫn sơ lược, manh mún và tụt hậu hàng chục năm so với thế giới.” Cũng trong bài báo
đó, Phạm Huy Tiến cho biết “Cho đến nay chúng ta vẫn đang thiếu những thông số cơ bản, đủ
tin cậy về các đặc trưng điều kiện tự nhiên, chưa đánh giá được đầy đủ, chính xác tiềm năng các
tài nguyên thiên nhiên chủ yếu trên phạm vi toàn vùng biển chủ quyền của đất nước, nhất là vùng
xa bờ, vùng sâu. Nghiên cứu cơ bản và dự báo biển động của quá trình khí tượng thủy văn, động
lực, địa hình, địa chất, sinh thái môi trường biển và nguồn lợi hải sản… chỉ mới bắt đầu.” Về
chuyển giao công nghệ, Đỗ Văn Khương cho biết :”Các nhà hải dương học chưa giải quyết được
bài toán dự báo cá khai thác, đáp ứng các câu hỏi của ngư dân là đánh cá ở đâu, vào lúc nào,
bằng phương tiên gì và quy mô khai thác như thế nào?” Chúng ta có rất ít tài liệu về lịch sử phát
triển ngành đóng tàu, những hoạt động hàng hải và hải quân trên biển. Chúng ta cũng có rất ít
những nhà nghiên cứu và chuyên gia về biển tầm cỡ thế giới. Trên các diễn đàn khoa học và các
tạp chí khoa học biển quốc tế, vắng bóng các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu biển Việt Nam.
Về an ninh quốc phòng và an toàn trên biển, lực lượng hải quân và cảnh sát biển của chúng ta
chưa mạnh. Quần đảo Hoàng Sa của chúng ta đã chính thức bị Trung Quốc đánh chiếm trước
1975 (19/1/1974). Sau 1975, Trung Quốc lại tấn công một số đá và đảo trên quần đảo Trường Sa
năm 1988, hải quân chúng ta không đủ sức chống đỡ, một số tàu hải quân bị chìm, người thiệt
mạng và chúng ta đã mất thêm một số đá và đảo trên quần đảo Trường Sa. Trung Quốc ngày
càng thể hiện rõ bản chất bành trướng trên Biển Đông và đe dọa tới tình hình an ninh của Việt
Nam và khu vực vì vấn đề khủng hoảng năng lượng (dầu hỏa) của Trung Quốc.
Trước thực trạng nghiên cứu biển Việt Nam như trình bày tóm lược ở trên, vậy chúng ta phải làm
sao đó để có thể có được những nghiên cứu biển có hệ thống, và có được những thư viện thông
tin chính xác kịp thời phục vụ cho công cuộc xây dựng phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh
quốc phòng? Mục đích của bài báo này nhằm thảo luận và đưa ra một số kiến nghị nhằm thúc đẩy
việc nghiên cứu biển ở Việt Nam. Tác giả sẽ lần lượt trình bày tầm quan trọng của biển đảo bao
bọc xung quanh Việt Nam trong Phần 2, thảo luận lý do nghiên cứu biển và đề xuất một số ý kiến
về việc thúc đẩy nghiên cứu biển trong Phần 3 và tóm tắt một số kết luận chính trong Phần 4.
2. Tầm quan trọng của biển đảo bao bọc xung quanh Việt Nam
Phần này sẽ trình bày khái quát về biển đảo và tầm quan trọng kinh tế chiến lược của biển đảo
Việt Nam.
2.1 Vị trí địa lý Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia ven biển nằm trong khu vực trung tâm của Đông Nam Á, Việt Nam có
vùng biển nối liền tuyến giao thông vận tải đường biển quan trọng giữa Ấn Độ Dương với Thái
Bình Dương, đặc biệt Biển Đông Việt Nam là tuyến vận tải dầu và containers từ các nước khác
tới Nhật Bản, Triều Tiên và Trung Quốc, những nước đang tiêu thụ khối lượng năng lương khổng
lồ. Việt Nam ở vị trí có tiềm năng phát triển kinh tế biển như đóng tàu, vận tải đường biển, phát
triển cảng và công trình thủy, khai thác thủy hải sản, khai thác tài nguyên khoáng sản biển và dầu
khí, du lịch biển và hải đảo, dịch vụ đường biển và các ngành khác liên quan (tin học ứng dụng).
Hình 1 Vị trí Việt Nam trong vùng Đông Nam Á
2.2 Khái quát về biển đảo Việt Nam
Việt Nam giáp với biển ở hai phía đông và nam. Vùng biển Việt Nam là một phần của Biển Đông.
Bờ biển Việt Nam dài 3.260km, từ Quảng Ninh ở phía đông bắc tới Kiên Giang ở phía tây nam.
Tính trung bình tỉ lệ diện tích theo số km bờ biển thì cứ 100km2 thì có 1km bờ biển (so với trung
bình của thế giới là 600km2 đất liền trên 1km bờ biển). Biển có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa với diện tích trên 1 triệu km2 (gấp ba lần diện tích đất liền: 1 triệu
km2/330.000km2) (5).
Biển đảo Việt Nam có thể chia thành bốn khu vực: biển Đông Bắc (một phần Vịnh Bắc Bộ,
VBB), nằm phía đông bắc Việt Nam và tiếp giáp với Trung Quốc (đảo Hải Nam), biển Bắc
Trung Bộ (một phần Biển Đông) nằm phía đông Việt Nam, biển Nam Trung Bộ (một phần Biển
Đông) ở phía đông nam và vùng biển Tây Nam (một phần Vịnh Thái Lan) nằm phía tây nam của
Việt Nam tiếp giáp với Cambodia và Thái Lan. Trong khu vực biển Việt Nam có khoảng 4000
đảo lớn nhỏ, gần và xa bờ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm xa bờ tạo thành
một phòng tuyến bảo vệ kiểm soát và làm chủ vùng biển và hải đảo.
Biển Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng, là khu vực giao thông nối liền Thái Bình Dương
và Ấn Độ Dương, Châu Á với Châu Âu, Châu Úc với Trung Đông. Khu vực biển Việt Nam là
một phần của Biển Đông, là tuyến đường vận tải dàu hỏa quan trọng tới Nhật Bản, Hàn Quốc và
Trung Quốc. Biển Việt Nam có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi và có tiềm năng phát triển ngành
kinh tế biển phong phú và đa dạng.
Những đặc điểm chính của biển đảo Việt Nam: có khí hậu vùng nhiệt đới tạo điều kiện cho sinh
vật biển phát triển tồn tại tốt. Biển có tài nguyên sinh vật và khoáng sản phong phú đa dạng và
quý hiếm.
Việt Nam nằm trải dài ven biển, có tới 26 tỉnh thành phố ven biển chiếm tới 42% diện tích và
45% dân số cả nước, có khoảng 15,5 triệu người sống gần bờ biển và 16 vạn người sống ở đảo.
2.3 Tiềm năng và tầm quan trọng của biển
Biển Việt Nam có tiềm năng phát triển kinh tế lớn và có tầm quan trọng về an ninh quốc phòng.
Nếu chúng ta biết khai thác và phát triển kinh tế biển sẽ thu được một nguồn lợi lớn, rất xứng
đáng với câu nói của tổ tiên “Rừng vàng biển bạc”. Tiềm năng và tầm quan trọng của biển được
thể hiện ở những điểm chính sau:
Tiềm năng phát triển kinh tế biển: Biển Việt Nam có tiềm năng phát triển kinh tế biển khá
phong phú, bao gồm các ngành thủy hải sản, khoáng sản, dầu mỏ, giao thông và du lịch. Chi tiết
cho trong (5) và (9), trong bài này chỉ xin tóm tắt như sau:
Thủy hải sản: Ở vùng biển nước ta cho đến nay chúng ta biết đến khoảng 2.040 loài cá gồm
nhiều bộ, họ khác nhau, trong đó những loài có giá trị kinh tế cao chiếm khoảng 110 loài. Trữ
lượng cá ở vùng biển nước ta đánh bắt được khoảng 3 triệu tấn/năm. Ở biển Việt Nam có khoảng
trên 1.500 loài nhiễm thể, riêng tôm có trên 100 loài. Ngoài tôm cá, chúng ta có nguồn lợi rong
biển. Biển nước ta có trên 600 loài rong biển là nguồn thức ăn có dinh dưỡng cao và là nguồn
dược liệu phong phú (5).
Chim biển: Các loại chim biển ở nước ta cũng phong phú, gồm hải âu, bồ nông, chim rẽ, hải yến.
Theo tính toán của các nhà khoa học thì phân chim tích tụ từ lâu đời trên các đảo cho trữ lượng
phân bón tới chục triệu tấn (5).
Khoáng sản: dưới đáy biển nước ta có nhiều khoáng sản quý như thiếc, ti-tan, đi-ri-côn, thạch
anh, nhôm, sắt, măng-gan, đồng, kền vá các loại đất hiếm. Muối ăn chứa trong nước biển bình
quân 3.500gam/m2 (5).
Dầu mỏ: Vùng biển Việt Nam rộng hơn l triệu km2 trong đó có 500.000km2 nằm trong vùng
triển vọng có dầu khí. Trữ lượng dầu khí ngoài khơi miền Nam Việt Nam có thể chiếm 25% trrữ
lượng dầu dưới đáy biển Đông. Có thể khai thác từ 30-40 ngàn thùng/ngày (mỗi thùng 159 lít)
khoảng 20 triệu tấn/năm. Trữ lượng dầu khí dự báo của toàn thềm lục địa Vict Nam khoảng 10 tỷ
tấn quy dầu. Ngoài dầu Việt Nam còn có khí đốt với trữ lượng khoảng ba nghìn tỷ m3/năm (5).
Giao thông: bờ biển nước ta chạy dọc từ bắc tới nam theo chiều dài đất nước, với 3.260km bờ
biể có nhiều cảng, vịnh, vụng… rất thuận lợi cho giao thông hang hải, đánh bắt cá và nuôi trồng
thủy hải sản. Nằm trên trục giao thông đường biển quốc tế từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ
Dương, trong tương lai biển Việt Nam sẽ là tiềm năng cho ngành kinh tế dịch vụ trên biển như
đóng tàu, sửa chữa tàu, tìm kiếm cứu trợ, thông tin dẫn dắt, vận tải hàng hóa.v.v…(5). Hình 2
minh họa tuyến đường giao thông vận chuyển dầu khí qua khu vực Biển Đông.
Hình 2 Các tuyến đường vận chuyển dầu khí trong khu vực Biển Đông (Nguồn: Center for Naval
Analyses and the Institute for National Strategic Studies)
Du lịch: Bờ biển dài có nhiều bãi cát, vụng, vịnh, hang động tự nhiên đẹp, hải đảo có nhiều loại
động thực vật quý hiếm là tiềm năng du lịch lớn (5). Việt Nam đã bắt đầu các chuyến du lịch
thăm một số đảo ở Quần đảo Trường Sa.
Tầm quan trọng về an ninh quốc phòng: Biển nước ta nằm trên đường giao thông biển quốc tế
từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, vì vậy có vị trí quân sự hết sức quan trọng. Đứng trên vùng
biển đảo của nước ta có thể quan sát khống chế đường giao thông huyết mạch ở Đông Nam Á.
Biển đảo nước ta có tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với sự phát triển trường tồn của đất nước
(5). Hình 3 là bản đồ tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, phần biển của Việt Nam chỉ còn là phần biển rất nhỏ nằm sát vạch tuyên bố lãnh hải
của Trung Quốc (hình lưỡi bò), an ninh quốc phòng Việt Nam bị đe dọa nghiêm trọng.
Hình 3 Bản đồ tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc cho ta thấy sự bành trướng của Trung Quốc
trên Biển Đông. Theo bản đồ này của Trung Quốc thì vùng biển chủ quyền của Việt Nam chỉ còn
phần phía tây của Vịnh Bắc Bộ theo Hiệp định phân chia VBB đã được ký kết và một phần nhỏ
Biển Đông (Nguồn:
2.4 Tiềm năng và tầm quan trọng của đảo và quần đảo
Vùng biển nước ta có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó vùng biển đông bắc có trên 3.000 đảo,
bắc Trung Bộ trên 40 đảo, còn lại ở vùng biển Nam Trung Bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Căn cứ vào vị trí chiến lược và các điều kiện địa lý kinh tế, dân cư,
thường người ta chia các đảo, quần đảo thành các nhóm đảo và quần đảo như sau:
1. Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên
các đảo có thể lập những căn cứ kiểm soát vùng biển, vùng trời nước ta, kiểm tra hoạt động của
tàu, thuyền, bảơ đảm an ninh quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của đất nước ta. Đó là các đảo, quần đảo như: Hoàng Sa, Trường Sa, Chàng Tây, Thổ Chu,
Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cô Tô, Bạch Long Vĩ... (5).
2. Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triên kinh tế-xã hội. Đó là các đảo như:
Cô Tô, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc (5).
3. Các đảo ven bờ gần có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là căn cứ đề bảo vệ trật tự,
an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta. Đó là các đảo thuộc huyện đảo Cát Hải-Cát Bà và
huyện đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), huyện đảo Phú Quý (Bình Thuận), huyện đảo Côn Sơn
(Bà Rịa-Vũng Tàu), huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang)...(5).
4. Quần đảo Hoàng Sa: Hoàng Sa là một quần đảo san hô nằm giữa biển Đông. Từ lâu, Hoàng Sa
cũng như Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam với tên Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa. Quần đảo
Hoàng Sa nằm ngang với vĩ độ Huế và Đà Nẵng. Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 đảo trong
vùng biển rộng khoảng 15.000 km2, trực thuộc Đà Nẵng. Năm 1956 Trung Quốc chiếm phần phía
Đông của quần đảo Hoàng Sa. Tháng l-1974, trong lúc quân dân ta đang tập trung sức tiến hành
cuộc kháng chiến chống Mỹ, Trung Quốc đã đưa quân ra đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam (5).
5. Quần đảo Trường Sa: Cách quần đảo Hoàng Sa khoảng trên 200 hải lý về phía Đông Nam.
Quần đảo Trường Sa bao gồm hơn 100 đảo nhỏ, bãi ngầm, bãi san hô nằm trải rộng trong một
vùng biển khoảng 180.000km2, trực thuộc Khánh Hòa. Chiều Đông Tây của quần đảo Trường Sa
là 325 hải lý, chiều Bắc Nam là 274 hải lý. Cách Cam Ranh 248 hải lý, cách đảo Hải Nam Trung
Quốc 595 hải lý. Tại quần đảo Trường Sa, đang diễn ra tình trạng có một số nước tranh chấp chủ
quyền với ta. Tình hình hiện nay trên Quần đảo Trường sa: Philippines chiếm 8 đảo, Malaysia
chiếm 3 đảo, Đài Loan chiếm l đảo, Trung Quốc chiếm 9 bãi đá ngầm. Việt Nam đang có mặt và
bảo vệ 21 đảo và bãi đá ngầm trên quần đảo Trường Sa (5).
Đảo và quần đảo nước ta có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đặc biệt trong các ngành kinh tế biển như vận tải biển, đóng tàu, ngư nghiệp và nuôi
trồng thủy hải sản, chế biến thủy hải sản và các ngành liên quan, có vai trò lớn lao trong công
cuộc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc ta.
2.5 Vịnh Bắc Bộ
Vịnh Bắc bộ nằm ở Tây Bắc Biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam và Trung Quốc.
Diện tích khoảng 126.250km2, chiều ngang, nơi rộng nhất khoảng 310 km và nơi hẹp nhất
khoảng 220km. Hiệp Định Phân định Vịnh Bắc Bộ ký tháng 12/2000 giữa Việt Nam và Trung
Quốc đã xác định biên giới lãnh hải của hai nước ở ngoài cửa sông Bắc Luân, cũng như giới hạn
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của ta và Trung Quốc ở trong Vịnh Bắc Bộ. Về diện tích
tổng thể theo mực nước trung bình thì ta được 53,23%, Trung Quốc được 46,77% diện tích Vịnh.
Vịnh Bắc Bộ là vịnh nông, nơi sâu nhất khoảng l00m. Thềm lục địa Việt Nam khá rộng, độ dốc
thoải và có một lòng máng sâu trên 70m gần đảo Hải Nam của Trung Quốc. Phần Vịnh phía Việt
Nam có khoảng 3.000 đảo lớn nhỏ, đảo Bạch Long Vĩ diện tích 2,5km2 cách đất liền Việt Nam
110km, cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 130km. Có nhiều nguồn lợi hải sản (trữ lượng cá của
Việt Nam khoảng 44 vạn tấn) và tiềm năng dầu khí (5).
2.6 Vịnh Thái Lan
Vịnh Thái Lan nằm ở Tây Nam biển Đông, được bao bọc bởi bờ biển Việt Nam, Campuchia,
Thái Lan, Malaysia. Diện tích khoảng 293.000km2, chu vi khoảng 2.300km. Vịnh Thái Lan là
một vịnh nông, nơi sâu nhất khoảng 80 mét. Đảo Phú Quốc trong Vịnh Thái Lan là đảo lớn nhất
của Việt Nam, diện tích 567km2. Vùng biển Vịnh Thái Lan có nhiều nguồn lợi hải sản (trữ lượng
cá của Việt Nam khoảng 51 vạn tấn). Vùng biển Vịnh Thái Lan có tiềm năng dầu khí lớn, Việt
Nam đã khai thác và hợp tác khai thác vùng chồng lấn với Malaysia (5).
Những độc giả quan tâm có thể tìm đọc thêm thông tin về biển Việt Nam ở các nguồn tham khảo
(5), (6), (9), (13) và (14).
3. Một số ý kiến về việc nghiên cứu biển ở Việt Nam
Từ những phân tích về tầm quan trọng chiến lược và kinh tế của biển đảo của Việt Nam, chúng ta
thấy việc nghiên cứu biển một cách khoa học và hệ thống sẽ đem lại nhiều lợi ích góp phần vào
công cuộc phát triển kinh tế biển và đảm bảo an ninh quốc phòng. Trong phần này, tác giả thảo
luận và nêu những lý do cần thiết của việc nghiên cứu biển và xin đề xuất một số kiến nghị nhằm
thúc đẩy hoạt động nghiên cứu biển với một hi vọng là sẽ có nhiều người quan tâm và thực hiện
nhiều chủ đề nghiên cứu biển trong những năm tới.
3.1 Những lý do cần nghiên cứu biển ở Việt Nam
Người viết bài này đã cố gắng đi tìm tài liệu liên quan đến lịch sử ngành hàng hải và đóng tàu của
Việt Nam trên Internet, và thấy thấy rằng tài liệu liên quan đến lịch sử ngành hàng hải và đóng
tàu của Việt Nam không có nhiều. Các tư liệu lịch sử ngành hàng hải và đóng tàu của Việt