Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay

Tóm tắt Trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phần đông sinh viên có ý thức học tập, rèn luyện tay nghề để trở thành những người lao động giỏi góp phần dựng xây đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay một bộ phận lớn sinh viên mới ra trường không đáp ứng được yêu cầu công việc, không tìm kiếm được việc làm vì thiếu những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Xuất phát từ việc kế thừa có chọn lọc những cơ sở lý luận về kỹ năng nghề nghiệp của các nhà khoa học đi trước, tác giả đã phân tích làm rõ thực trạng kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên hiện nay biểu hiện cụ thể ở những khía cạnh như tri thức nghề nghiệp, năng lực thực hành nghề nghiệp và thái độ đối với nghề. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản đối với nhà trường, giảng viên, sinh viên nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên, góp phần đào tạo những người lao động có đủ phẩm chất, năng lực để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 109 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY SOME BASIC SOLUTIONS CONTRIBUTE TO IMPROVE PROFESSIONAL SKILLS FOR STUDENTS IN THE PRESENT STAGE Nguyễn Thị Hiền, Phạm Thị Hồng Hoa Email: nguyenhienhp25@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 12/8/2017 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 25/9/2017 Ngày chấp nhận đăng: 26/9/2017 Tóm tắt Trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phần đông sinh viên có ý thức học tập, rèn luyện tay nghề để trở thành những người lao động giỏi góp phần dựng xây đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay một bộ phận lớn sinh viên mới ra trường không đáp ứng được yêu cầu công việc, không tìm kiếm được việc làm vì thiếu những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Xuất phát từ việc kế thừa có chọn lọc những cơ sở lý luận về kỹ năng nghề nghiệp của các nhà khoa học đi trước, tác giả đã phân tích làm rõ thực trạng kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên hiện nay biểu hiện cụ thể ở những khía cạnh như tri thức nghề nghiệp, năng lực thực hành nghề nghiệp và thái độ đối với nghề. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản đối với nhà trường, giảng viên, sinh viên nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên, góp phần đào tạo những người lao động có đủ phẩm chất, năng lực để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ khóa: Kỹ năng; kỹ năng nghề nghiệp; kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên. Abstract In condition our country are promoting industrialization process, country modernization, learning student majority apprehensively, forge skill to become more and more more powerful wealthy country masonry hook up contributory jurisprudent toilers. However, practically at present a student big division newly pass out non-response be demand work, doesn’t searchable that deed for lack of skills is necessary occupational. Proceed from reasoning bases concernment inheritted selective about occupational skill of scientists preceded, author parsed clarifies profession of present-day student skill actual situations concrete denotement In aspects such as occupational knowledge, manner and competence profesional practice with respect to business. Since then, a number of basic solution offer author is regarding scholastic, lecturer, student with a view to occupational skill enhancement for student, contribute toilers education have enough of snob appeal, competence for objective victory exec build country in socialist rise translational period. Keywords: Skills; career skills; career skills of students. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng thì yêu cầu của các nhà tuyển dụng đối với người lao động được đặt ra ngày càng khắt khe. Những yêu cầu đó không chỉ bó hẹp trong phạm vi kiến thức chuyên ngành mà còn bao gồm cả kinh nghiệm công tác, kỹ năng sống, sự nhanh nhạy trong xử lý công việc, cũng như sử dụng thành thạo ngoại ngữ và công nghệ thông tin đó chính là kỹ năng nghề nghiệp của mỗi người. Điều này đã và đang đặt ra những khó khăn, thách thức cho tất cả sinh viên, đặc biệt là những người vừa mới ra trường, chưa có kinh nghiệm cũng như các kỹ năng sống và kỹ năng làm việc. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường hiện nay. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên và tìm ra các giải pháp để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. 2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP Khi nói đến đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng nghề nghiệp, các nhà nghiên cứu thường đưa ra các thuật ngữ có liên quan như là kỹ năng, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng cứng, kỹ năng mềm... Trong khuôn khổ bài viết 110 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 này, tác giả sẽ làm rõ hai khái niệm: Thứ nhất là khái niệm về kỹ năng; thứ hai là kỹ năng nghề nghiệp. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng, tùy vào cách tiếp cận. Theo Từ điển tiếng Việt: “Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức đã thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó áp dụng vào thực tế” [10]. Theo Từ điển Giáo dục học, “kỹ năng được phân chia thành hai bậc: kỹ năng bậc thấp và kỹ năng bậc cao. Kỹ năng bậc thấp là khả năng thực hiện đúng hành động, phù hợp với những mục tiêu và điều kiện cụ thể. Ở bậc này có những kỹ năng hình thành không cần qua luyện tập nếu biết tận dụng hiểu biết và kỹ năng tương tự đã có để chuyển sang các hành động mới. Kỹ năng bậc cao là khả năng thực hiện hành động, hoạt động một cách thành thạo linh hoạt, sáng tạo phù hợp với những mục tiêu trong những điều kiện khác nhau. Để đạt tới kỹ năng này cần trải qua giai đoạn luyện tập các kỹ năng đơn giản sao cho mỗi khi hành động, người ta không còn bận tâm nhiều đến thao tác nữa vì nhiều thao tác đã tự động hóa” [4]. Từ những quan điểm trên, có thể rút ra một số những đặc điểm về kỹ năng như sau: - Kỹ năng là những quá trình tâm lý, vì nó là tổ hợp hàng loạt các yếu tố hợp thành như tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đã có; khả năng chú ý, tư duy;... - Kỹ năng có tính linh hoạt và có thể di chuyển từ hoàn cảnh này sang hoàn cảnh khác; kỹ năng có tính kĩ thuật, tức là có cấu trúc thao tác và trình tự tổ chức các thao tác đó. - Kỹ năng được hình thành do luyện tập, được hình thành trong quá trình hoạt động của con người. - Kỹ năng được hình thành qua năm giai đoạn (hình 1). Như vậy, có thể thấy có những quan điểm khác nhau về kỹ năng, tuy nhiên đều thừa nhận rằng kỹ năng là một quá trình tâm lý, được hình thành khi con người áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng theo nghĩa hẹp hàm chỉ đến những thao tác, hành động của con người. Kỹ năng hiểu theo nghĩa rộng hướng nhiều đến khả năng, đến năng lực của con người. Kỹ năng nghề nghiệp là thuật ngữ có nguồn gốc từ thuật ngữ kỹ năng, nhưng nội hàm được mở rộng theo hướng khả năng và năng lực thực hiện của con người. Năng lực thực hiện được coi là sự tích hợp nhuần nhuyễn của ba thành tố kiến thức, kỹ năng, thái độ cần thiết để hoàn thành được từng công việc cụ thể của nghề, chứ không phải là sự tồn tại độc lập giữa chúng với nhau và ít liên quan đến công việc của nghề [5]. Hình 1. Các giai đoạn hình thành kỹ năng Trong những năm gần đây, xu thế hội nhập, quá trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng. Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó nguồn nhân lực chất lượng cao càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển cũng như năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Xác định được vai trò quan trọng đó, Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định một trong ba đột phá chiến lược mà Đảng ta đã đề ra trong nhiệm kỳ 2016-2020 đó là: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” [3]. Vấn đề này có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của quốc gia, là yêu cầu tất yếu và bức thiết trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Hiện tại, Việt Nam có hơn 500 trường đại học, cao đẳng trong cả nước, hàng năm số lượng sinh viên ra trường rất lớn, dẫn đến vấn đề giải quyết việc làm cho sinh viên mới ra trường cũng đang gặp khó khăn. Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp ở sinh viên khá cao, theo báo cáo của Tổng cục Thống kê về điều tra lao động việc làm Quý I năm 2017, cả nước có khoảng 1,1 triệu người trong độ tuổi lao động thất nghiệp, trong số những người thất nghiệp nhóm có trình độ đại học trở lên là 138.800 người; nhóm có trình độ cao đẳng 104.200 người [8]. Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp ở sinh viên hiện nay vẫn ở mức độ cao và thực trạng đó do nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân quan điều kiện thay đổi LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 111 trọng là do sinh viên mới ra trường còn rất yếu và thiếu những kỹ năng nghề nghiệp. Vì vậy, việc nâng cao, phát triển kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng là một yêu cầu cấp thiết trong mục tiêu giáo dục đào tạo của các trường và đây cũng là yếu tố quan trọng tạo cơ hội việc làm cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Qua nghiên cứu, chúng tôi xác định cấu trúc của kỹ năng nghề nghiệp gồm các thành tố cơ bản: KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP [1]. Tri thức về nghề [2]. Năng lực thực hành nghề [3]. Thái độ với nghề Trong đó, nội dung [1] là chuẩn đầu ra giúp người học có được những kiến thức chuyên môn cần thiết; nội dung [2] thể hiện người học tích lũy được những kỹ năng, năng lực thực hành, những tố chất cho bản thân, giúp người học có kỹ năng để làm việc khi ra trường; nội dung [3] tập trung vào thái độ với nghề bao gồm trách nghiệm, suy nghĩ, đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, tác phong trong lao động, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật lao động... Có thể khẳng định rằng, sinh viên sau khi tốt nghiệp cần đảm bảo các yêu cầu: có kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành nghề nghiệp vững chắc, có khả năng lao động sáng tạo, có khả năng thích ứng cao với những biến động của thị trường lao động, có khả năng sử dụng ngoại ngữ, tin học trong học tập, nghiên cứu và làm việc sau khi tốt nghiệp, có thái độ, kỷ luật làm việc nghiêm túc Những phẩm chất đó được khái quát lên thành kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ở các trường cao đẳng, đại học hiện nay, không ít sinh viên còn chưa xác định rõ mục tiêu, lý tưởng, động cơ nghề nghiệp của mình, khả năng thích ứng với hoạt động học tập và rèn luyện nghề còn nhiều hạn chế, hầu hết các em chưa được trang bị những tri thức cần thiết để hình thành và phát triển kỹ năng nghề nghiệp. Mặt khác, thực tiễn cho thấy còn có những hạn chế nhất định đối với chất lượng sau khi tốt nghiệp. Nhiều sinh viên chưa chuẩn bị tâm thế sẵn sàng tham gia vào hoạt động nghề nghiệp, các em còn lúng túng và khó thích nghi với những yêu cầu của môi trường lao động nghề nghiệp trong thực tế- môi trường có nhiều điểm khác biệt với những lý thuyết mà các em được tiếp thu ở trường. Những kỹ năng để thích ứng với nghề và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn công việc còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các giải pháp nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên hiện nay có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm phong phú thêm những khái niệm, những lý thuyết trong giáo dục nghề nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng, là những gợi ý cho các nhà quản lý giáo dục, những giảng viên và sinh viên trong việc lựa chọn và áp dụng những giải pháp hiệu quả nhằm phát triển kỹ năng nghề trong học tập và trong thực tiễn nghề nghiệp sau này. 3. THỰC TRẠNG KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY Kỹ năng nghề nghiệp là phẩm chất không thể thiếu đối với người lao động trong giai đoạn hiện nay. Đánh giá về thực trạng kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên được thể hiện qua một số nội dung sau: Thứ nhất, tri thức nghề nghiệp: theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, hiện nay cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh viên, trong đó, sinh viên đại học chiếm 66%, sinh viên cao đẳng chiếm 34% [8]. Nhìn chung sinh viên có năng lực tiếp thu tri thức tốt, được đào tạo cơ bản, ngày càng chủ động, sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học, tiếp cận nhanh với tri thức khoa học của thế giới. Bên cạnh học tập, nghiên cứu lý thuyết, sinh viên đã tích cực liên hệ thực tiễn, sáng tạo những sản phẩm khoa học, công nghệ thiết thực; ứng dụng kiến thức vào thực tế. Đây chính là lực lượng chính bổ sung cho đội ngũ trí thức, nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước. Sinh viên khi học trong các trường đại học, cao đẳng đã trang bị cho mình những kiến thức cần thiết, đó là một trong những hành trang không thể thiếu với sinh viên. Kiến thức bao gồm kiến thức đại cương và kiến thức chuyên ngành, trong đó, kiến thức chuyên ngành được coi là yếu tố quyết định trong công việc. Ngoài ra, kiến thức đại cương cũng là yếu tố cơ bản, nền tảng hỗ trợ cho sinh viên học tốt các môn chuyên ngành và trong công việc sau này. Tuy nhiên, một bộ phận sinh viên lại có thái độ thờ ơ, không coi trọng các môn học đại cương, thậm chí thờ ơ với cả những môn chuyên ngành dẫn đến nhiều sinh viên khi ra trường kiến thức cơ bản là chưa vững. Nghiên cứu mới đây của PGS.TS. Nguyễn Công Khanh khảo sát 448 sinh viên ngẫu nhiên hai trường Đại học Khoa học tự nhiên và Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã chỉ ra một loạt các con số về ý thức học tập của sinh viên, kết quả khảo sát theo bảng 1: Bảng 1. Khảo sát ý thức học tập của sinh viên (Đơn vị: %) Nội dung Kết quả Ý thức học thụ động 36,1% Thích nghe giáo viên giảng hơn là chủ động hỏi 22,9% Chủ động học tập 41% (Nguồn [6]) 112 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên ý thức học tập thụ động, ngại nêu thắc mắc, ngại nói ra ý tưởng riêng của mình trong các cuộc thảo luận trên lớp, thích nghe giáo viên giảng hơn là chủ động hỏi chiếm tỷ lệ cao là 59%, còn sinh viên có ý thức, chủ động học tập chiếm tỷ lệ thấp hơn là 41%. Đây là những con số đáng phải suy nghĩ. Sinh viên đang thiếu hụt đáng kể các chiến lược học tập cũng như các kỹ năng học tập, vì vậy chúng ta cần phải nỗ lực cải tiến phương pháp dạy và học, giúp sinh viên hình thành ý thức học tập tích cực, hiệu quả. Tại Hội thảo:“Việc làm của người học tốt nghiệp Đại học Quốc gia Hà Nội - Cơ hội và thách thức”, TS. Trần Thị Tuyết, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đã công bố một khảo sát về việc làm sinh viên ở 132 nhà tuyển dụng và 581 sinh viên. Khi khảo sát doanh nghiệp đánh giá về trình độ của sinh viên, kết quả cho thấy chỉ 30% nhà doanh nghiệp đánh giá tốt về kiến thức chuyên môn, 11% đánh giá tốt về kỹ năng mềm, 2% đánh giá tốt về kinh nghiệm làm việc [9]. Qua đó, chúng ta thấy phần đông sinh viên hiện nay chưa có ý thức học tập một cách chủ động, tích cực cho nên nhiều sinh viên ra trường kiến thức chuyên môn không vững và đây là một trong những nguyên nhân làm cho nguồn lao động nước ta chưa có chất lượng thực sự. Thứ hai, năng lực thực hành nghề: Đây là phẩm chất về chất lượng rất quan trọng của người lao động. Biểu hiện ở phẩm chất về năng lực chuyên môn kỹ thuật, nhất là về năng lực thực hành nghề của người lao động Việt Nam trong những năm qua được nâng cao rõ rệt, từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, của thị trường lao động. Phẩm chất này còn thể hiện rất rõ tại các cuộc thi tay nghề ASEAN, cụ thể tại kỳ thi tay nghề Asean lần thứ 11 ở Malaysia, đoàn lao động Việt Nam giành được ngôi vị cao xếp thứ ba sau Malaysia và Indonesia. Tuy nhiên, yếu điểm cơ bản của lao động nước ta là tỷ lệ lao động qua đào tạo, nhất là đào tạo nghề còn thấp, chỉ bằng 1/3 các nước và các nền công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Singapore; Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 2016, Việt Nam hiện có khoảng 78,6% người lao động chưa qua đào tạo nghề và chỉ có 21,4% là qua đào tạo có bằng, chứng chỉ (Trong khi lao động qua đào tạo có chứng chỉ của Singapore là 61,5%, Hàn Quốc là 62%...) [2]. Đặc biệt, hiện nay năng suất lao động của Việt Nam đang ở mức báo động đỏ, thấp hơn Singapore 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Thái Lan 2,5 lần. Cho nên, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu thực tiễn hiện nay là một nhiệm vụ cấp bách đang được đặt ra đối với Việt Nam, mà nguồn lực lao động chính là nằm trong đội ngũ sinh viên. Tuy nhiên, khả năng làm việc, kỹ năng nghề của sinh viên nước ta hiện nay còn yếu, thể hiện: Một là, yếu kỹ năng thực hành: Sinh viên mới tốt nghiệp của các trường đại học, cao đẳng có kiến thức nền khá tốt, tuy nhiên các kỹ năng thực tế, kỹ năng thực hành hay kỹ năng làm việc của sinh viên thì còn yếu. Trong khi đó, một yêu cầu quan trọng mà nhà tuyển dụng đòi hỏi từ sinh viên ra trường là phải có kỹ năng thực hành. Theo khảo sát của Phan Văn Kha và Phạm Văn Tâm - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam có tới 83% sinh viên ra trường bị đánh giá là thiếu kỹ năng này [6]. Các doanh nghiệp khi tuyển dụng những sinh viên mới ra trường đều phải đào tạo lại để đáp ứng nhu cầu công việc cụ thể của doanh nghiệp, tùy vào từng trường, từng nhóm ngành nghề cụ thể mà sinh viên ra trường đi làm cần phải đào tạo lại nhiều hay ít. Hai là, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế: Theo xu hướng toàn cầu hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, hiện nay có nhiều công ty đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam, các công ty trong nước cũng có xu hướng gia tăng liên kết với nước ngoài, đòi hỏi lao động phải có trình độ ngoại ngữ nhất là tiếng Anh. Tuy nhiên, theo khảo sát 59 trường đại học không chuyên ngữ trong cả nước về khả năng sử dụng tiếng Anh đáp ứng yêu cầu công việc của sinh viên tốt nghiệp, kết quả cho thấy ở bảng 2. Bảng 2. Khảo sát về khả năng sử dụng tiếng Anh đáp ứng yêu cầu công việc của sinh viên tốt nghiệp Nội dung Kết quả Đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng 49,3% Không đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng 18,9% Sinh viên cần đào tạo thêm 31,8% (Nguồn [1]) Như vậy, sự hạn chế về trình độ ngoại ngữ đã làm cho nhiều sinh viên mới ra trường đánh mất cơ hội việc làm của mình. Ba là, thiếu kỹ năng mềm: Hiện nay, bằng cấp và các kiến thức về chuyên môn chưa phải là các yếu tố quyết định để các nhà tuyển dụng đánh giá năng lực làm việc của sinh viên, mà các nhà tuyển dụng rất quan tâm đến kỹ năng mềm của sinh viên. Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố báo cáo về giáo dục đại học các nước Đông Á - Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam, vấn đề rèn luyện kỹ năng mềm cho sinh viên trước khi ra trường được xem là một điểm yếu của giáo dục đại học ở Việt Nam. Hiện nay, phần lớn sinh viên khi tốt nghiệp đều được trang bị những kiến thức chuẩn về ngành nghề mà họ được đào tạo LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 4(59).2017 113 trong các trường đại học. Tuy nhiên, các kỹ năng mềm như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, tìm kiếm thông tin, giải quyết vấn đề, kỹ năng quản lý, để đáp ứng nhu cầu thị trường lao động thì sinh viên còn rất hạn chế. Rất nhiều nhà doanh nghiệp khi tuyển dụng được nhân viên, họ lại tiếp tục phải đào tạo thêm nhiều kỹ năng cho nhân viên mới. Theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, có hơn 13% sinh viên phải được đào tạo lại hoặc bổ sung kỹ năng, gần 40% phải được kèm cặp lại tại nơi làm việc, 41% cần thời gian làm quen với công việc [2]. Thiếu các kỹ năng mềm cần thiết khiến nhiều sinh viên khó xin việc làm. Thứ ba, thái độ đối với nghề: Trong hoạt động nghề nghiệp, người lao động không ngừng được hoàn thiện những giá trị, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp để điều chỉnh hành vi của người lao động trong thực hiện công việc, trở thành trách nhiệm và ý thức tự giác, thường nhật của người lao động, trở thành nét văn hóa nghề nghiệp kết tinh trong mỗi con người. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, bên cạnh những mặt thuận lợi, tích cực thì vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng có những biểu hiện cần phải lên án, bài trừ, đó là sự tha hóa đạo đức của cán bộ công nhân viên chức trong các cơ quan công quyền, hành chính, trong một số ngành nghề khác như y tế, giáo dục, kinh doan
Tài liệu liên quan