Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹđẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các
em hình thành 4 kỹnăng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong
môn Tiếng Việthội đủ4 kỹnăng trên. Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn
khó. Bởi ởlứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh
đó còn có một sốkhó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của HS ởđịa
bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện đểquan tâm đến các em,
việc diễn đạt ngôn ngữkém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, HS nghèo vốn từ
ngữ Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập
làm văn nói riêng.
Trong chương trình Tiếng Việt l ớp 2, ngay từđầu năm học, các em
đựơc làm quen với đoạn văn và được rèn kỹnăng viết đoạn văn từ3 đến 5 câu.
Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều HS làm bài
chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết
không đúng yêu cầu của đềbài hoặc có những bài làm đảm bảo vềsốcâu nhưng
viết không đủý.
11 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 6302 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp giúp hs lớp 2 viết được một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HS LỚP 2 VIẾT
ĐƯỢC MỘT ĐOẠN VĂN NGẮN TỪ 3 ĐẾN 5 CÂU
I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các
em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn trong
môn Tiếng Việt hội đủ 4 kỹ năng trên. Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn
khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh
đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của HS ở địa
bàn dân cư lao động nghèo, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em,
việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, HS nghèo vốn từ
ngữ…Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập
làm văn nói riêng.
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em
đựơc làm quen với đoạn văn và được rèn kỹ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu.
Trong quá trình làm bài, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều HS làm bài
chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, có em viết
không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng
viết không đủ ý.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn và trăn trở:
Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn
cố gắng để tìm ra những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho HS của lớp
mình. Đây là lý do tôi chọn và áp dụng một số giải pháp để “ Giúp học sinh lớp 2
viết được đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu”. Sau đây, tôi xin trình bày một số giải
pháp mà bản thân đã đúc kết được trong thời gian qua.
II. NỘI DUNG THỰC HIỆN:
Để giúp HS học tốt tiết Tập làm văn viết đoạn văn ngắn theo
yêu cầu của đề bài, tôi thường áp dụng những phương pháp sau:
1. Vận dụng phương dạy học phát huy tính tích cực của học sinh:
Kết hợp phương pháp quan sát và hỏi đáp:
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên
lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà.
Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi
bật của đối tượng , mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên
cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận
một cách có cảm xúc về sự vật.
Phương pháp thực hành giao tiếp:
Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học
sinh kỹ năng nói, trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó,
giáo viên điều chỉnh giúp học hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này,tôi
thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có
thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm
việc trong nhóm )
Phương pháp phân tích ngôn ngữ:
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ
và câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng
cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập
làm văn. Sử dụng phương pháp này để GV có cơ sở giúp HS nhận ra cấu tạo câu,
nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận.
Ví dụ:
Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “
Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai – như thế nào?”, GV hướng dẫn HS nhận biết
những vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời
cho câu hỏi Ai?( hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì
(hoặc làm gì?/ như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo ).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? ( Đảm bảo về mặt
nghĩa )
Trên cơ sở đó , GV hướng dẫn HS viết dấu chấm khi hết câu.
Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu:
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, việc sử dụng từ ngữ
trong bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sử dụng từ ngữ chưa phù
hợp, chưa chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp giúp các em lựa chọn, phân
tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, GV cũng cần giới thiệu, cung
cấp thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn.
Ví dụ:
Khi viết đoạn văn kể về người thân thì HS sẽ có nhiều bài làm
khác nhau, GV cần giúp HS chọn lựa từ ngữ cho phù hợp, khi kể về bố là thầy
giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của
em đối với với cha mẹ, ông bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của
mình đối với bạn bè; Viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa
như: bình minh, hừng đông, sớm mai; viết về gia đình có các từ như đoàn tụ,
sum họp, quây quần…; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay gắt,
đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa…GV cần chuẩn bị kỹ với mỗi
bài để hướng dẫn HS vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài viết.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:
1, Về kỹ năng:
Để tránh tình trạng học sinh không làm được bài hoặc viết
lan man quá nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như
thế nào để viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy.
a. Giúp HS có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng:
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu
hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. GV có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn
HS chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị
phần tự học khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có
câu hỏi gợi ý, GV có thể soạn , cung cấp cho các em.
Ví dụ:
Bài viết về một người thân:
- Người thân của em là ai?
- Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm công việc gì?
- Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người
ấy dành cho em?
Bài viết về một loại quả:
- Tên loại quả ấy là gì? Em đã nhìn thấy nó ở đâu?
- Hình dáng bên ngoài ra sao? Bên trong như thế nào?
- Vì sao em thích loại quả ấy?
Bài viết về một loài hoa:
- Loài hoa ấy có tên là gì? Em đã thấy ở đâu?
- Hoa có những đặc điểm gì ( màu sắc, các bộ phận
:cánh hoa, nhụy, hương thơm…)
- Vì sao em thích loài hoa ấy?
Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm :
- Em ( Bạn em )đã làm việc tốt khi nào? Ơ đâu? Đó là
việc gì?
- Em ( Bạn ấy ) đã làm như thế nào?
- Em suy nghĩ gì khi làm ( thấy bạn làm ) việc tốt đó?
b. Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn:
- Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt
bằng một câu )
- Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý , mỗi
gợi ý có thể diễn đạt 2,3 câu tùy theo năng lực học sinh.
- Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ
, mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi
của đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật:
- Con vật em định kể là con vật gì?
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó?
Câu mở đầu:
Giới thiệu chim cánh cụt
Trong thế giới loài chim, em thích nhất
là chim cánh cụt.
Phát triển: Kể về
chim cánh cụt
Cánh cụt sống ở những nơi lạnh giá, đầy
băng tuyết. Nó có đôi cánh giống như hai mái
chèo. Dáng đi của nó lũn chũn, trông rất buồn
cười. Là một loài chim nhưng em chẳng thấy
nó bay bao giờ. Thế nhưng nó lặn sâu dưới
nước để bắt cá rất cừ.
Câu kết thúc:
Tình cảm của em đối với
Em thích chim cánh cụt vì chúng là
loài chim này
những con vật hiền lành, dễ thương.
Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài
làm các em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ
động hình thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp
đặt và đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình
thành. Trong quá trình giảng dạy, GV phải kiên nhẫn luôn tái hiện và lặp lại
kiến thức cho HS trong suốt năm học, giúp HS có được nền móng tốt cho việc
học tập môn Tập làm văn ở các lớp trên.
2. Về kiến thức:
a. Tổ chức ôn tập tốt cho học sinh: Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập
làm văn ở lớp 2 để tổ chức ôn tập cho HS. Có thể tập hợp từ chương trình một
số đề bài sau đây:
Viết một đoạn văn ngắn về:
Gia đình
Một người thân
Cô giáo ( hoặc thầy giáo )của em
Các mùa trong năm
Một loài chim
Một con vật
Tả ngắn về biển
Tả ngắn về một loài cây
Một loài hoa
Viết về Bác Hồ
Một em bé
Kể một việc làm tốt
Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc
chắn, phân biết rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những
nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em.
b. Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh:
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung
kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ
và câu với phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự
vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi
gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề
tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ:
Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10
đến tuần 16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia
đình, cùng với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ
ngữ cho HS, ngoài việc giúp HS hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những
ai, ngoài việc khai thác và giáo dục tình cảm cho HS thông qua các nhân vật trong bài
Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung bài, hướng cho HS liên hệ đến bản
thân, gia đình, người thân của mình, tôi còn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em
hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các từ ngữ phù hợp với đề tài ( ông bà, cha mẹ, anh em
) để chuẩn bị cho bài làm văn sắp tới ( viết về người thân ), tôi luôn nói với các em sự
cần thiết phải học thuộc và lựa chọn những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài
tập làm văn, khơi gợi và kích thích tinh thần học tập của các em.
3.Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi gợi ý :
Các bước hình thành:
Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi.
Gợi ý cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng ; cung cấp
và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể
hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn
sinh động hơn ( khuyến khích học sinh khá giỏi vận dụng, không bắt buộc
tất cả các đối tượng học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học,
giáo viên hướng dẫn mẫu và cung cấp các thành ngữ so sánh , cách nhân
hóa nhưng không đưa những thuật ngữ này ra với đối tượng học sinh lớp 2
).
Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật
tự hợp lý để hoàn chỉnh bài làm miệng.
Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn
học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước
nhằm kích thích tinh thần học tập của học sinh.
4. Thực hiện nghiêm túc việc chấm và chữa bài:
Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi
sai để điều chỉnh , sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và
luyện tập nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất
nhiều lỗi sai . trong quá trình chấm bài, GV phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa
chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, GV giúp
học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn.
Khi sửa bài , GV nên giới thiệu những bài làm hay ở năm
học trước, hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó
nhận thấy sự khác nhau về cach diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng
những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn
trọng.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả
học tập phân môn Tập làm văn của lớp tôi có tiến bộ trong từng năm như sau:
Giỏi Khá Trung
bình
Yếu
BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua việc thực hiện các giải pháp trên, tôi rút ra bài học sau:
Hình thành cho các em thói quen học tập , làm việc một cách khoa
học.
Quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt
học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới.
Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi
để phát triển tư duy, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức.
Sử dụng nhiều hình thức: thi đua , khen thưởng để khuyến khích
các em nỗ lực học tập.
Lời kết:
Trên đây là một số giải pháp tôi đã thực hiện trong giảng dạy phân
môn Tập làm văn, tôi nhận thấy học sinh có tiến bộ trong từng năm học.Giải pháp
này được áp dụng cho giáo viên giảng dạy lớp 2. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra
còn nhiều hạn chế , thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi
rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm.