1. Mở đầu
Phương thức đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay chú trọng “lấy người học làm trung
tâm” trong quá trình dạy và học, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Trong phương thức đào tạo
theo tín chỉ thì việc tự học (TH), tự nghiên cứu của sinh viên (SV) được coi trọng, được tính vào nội dung và thời
lượng của chương trình. SV muốn nắm chắc khối lượng kiến thức cần thiết, SV phải tăng cường thời gian TH của
mình và chủ động tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giảng viên (GV). Bên cạnh đó, để SV hứng
thú TH ở nhà và phát huy tính tích cực học tập của SV ở trên lớp thì GV phải tổ chức được các hình thức và các
phương pháp dạy học tích cực, khơi dậy ở SV lòng ham hiểu biết, tìm tòi học hỏi, tạo cho SV có động cơ học tập,
có hứng thú học tập để tiếp thu những kiến thức mới. Khi có hứng thú học tập thì SV sẽ tham gia hoạt động học tập
sôi nổi, hào hứng và tích cực. Hứng thú với học tập là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết giúp cho việc TH của
SV mang lại hiệu quả cao, tránh được sự căng thẳng và nhàm chán, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, đáp ứng
những yêu cầu của đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực (NL) người học.
Từ thực tiễn giảng dạy và tổ chức các hoạt động học tập cho SV ngành Giáo dục Mầm non ở Trường Cao đẳng
Sơn La, chúng tôi nhận thấy SV quen thụ động nghe, chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, rập khuôn
những gì GV đã giảng mà chưa có tư duy sáng tạo, chưa biết cách TH. SV còn tỏ ra chán học, thiếu cảm hứng,
thiếu niềm đam mê học tập; lười tư duy, lười đọc là xu hướng khá phổ biến. Tình trạng này một phần là do
phương pháp dạy học của GV chưa kích thích được tính tích cực, sáng tạo của SV do chưa hướng dẫn và tổ chức
cho SV phương pháp TH đúng đắn. Do đó, để SV có động cơ tích cực TH cần giáo dục để SV nhận thức rằng TH
suốt đời là NL cốt lõi của con người trong thế kỉ XXI và với giáo viên thì không chỉ cần cho bản thân mà còn phải
giáo dục cho học sinh của mình như là một tiêu chuẩn nghề nghiệp.
Từ việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc học của SV nói chung, SV nhà trường nói riêng, tác giả đưa ra
một số giải pháp phát huy NL TH cho SV ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp phát triển năng lực tự học cho sinh viên ngành giáo dục mầm non, trường Cao đẳng Sơn La, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64
59
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
CHO SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON, TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA
Nguyễn Thị Hồng Vân+,
Hoàng Thị Vân
Trường Cao đẳng Sơn La
+ tác giả liên hệ ● Email: hongvancdsl@gmail.com
Article History ABSTRACT
Received: 05/02/2020
Accepted: 25/02/2020
Published: 05/4/2020
Self-study competency is a factor that directly affects students’ learning
results, as well as the teaching of lecturers. Students’ self- study is essential
because it will help students to be self-aware of the learning tasks and be ready
to study, contributing to improve the learning quality of students, such as
improve the effectiveness of preschool teacher training, meeting the training
curriculum innovation towards approaching learners' competencies and the
needs of society today.
Keywords
Competency, self-learning,
solution, Son La College,
preschool teacher training.
1. Mở đầu
Phương thức đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay chú trọng “lấy người học làm trung
tâm” trong quá trình dạy và học, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Trong phương thức đào tạo
theo tín chỉ thì việc tự học (TH), tự nghiên cứu của sinh viên (SV) được coi trọng, được tính vào nội dung và thời
lượng của chương trình. SV muốn nắm chắc khối lượng kiến thức cần thiết, SV phải tăng cường thời gian TH của
mình và chủ động tự chiếm lĩnh tri thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giảng viên (GV). Bên cạnh đó, để SV hứng
thú TH ở nhà và phát huy tính tích cực học tập của SV ở trên lớp thì GV phải tổ chức được các hình thức và các
phương pháp dạy học tích cực, khơi dậy ở SV lòng ham hiểu biết, tìm tòi học hỏi, tạo cho SV có động cơ học tập,
có hứng thú học tập để tiếp thu những kiến thức mới. Khi có hứng thú học tập thì SV sẽ tham gia hoạt động học tập
sôi nổi, hào hứng và tích cực. Hứng thú với học tập là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết giúp cho việc TH của
SV mang lại hiệu quả cao, tránh được sự căng thẳng và nhàm chán, từ đó góp phần nâng cao chất lượng, đáp ứng
những yêu cầu của đổi mới chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực (NL) người học.
Từ thực tiễn giảng dạy và tổ chức các hoạt động học tập cho SV ngành Giáo dục Mầm non ở Trường Cao đẳng
Sơn La, chúng tôi nhận thấy SV quen thụ động nghe, chép, ghi nhớ và tái hiện một cách máy móc, rập khuôn
những gì GV đã giảng mà chưa có tư duy sáng tạo, chưa biết cách TH. SV còn tỏ ra chán học, thiếu cảm hứng,
thiếu niềm đam mê học tập; lười tư duy, lười đọc là xu hướng khá phổ biến... Tình trạng này một phần là do
phương pháp dạy học của GV chưa kích thích được tính tích cực, sáng tạo của SV do chưa hướng dẫn và tổ chức
cho SV phương pháp TH đúng đắn. Do đó, để SV có động cơ tích cực TH cần giáo dục để SV nhận thức rằng TH
suốt đời là NL cốt lõi của con người trong thế kỉ XXI và với giáo viên thì không chỉ cần cho bản thân mà còn phải
giáo dục cho học sinh của mình như là một tiêu chuẩn nghề nghiệp.
Từ việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc học của SV nói chung, SV nhà trường nói riêng, tác giả đưa ra
một số giải pháp phát huy NL TH cho SV ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu thực trạng học tập của SV ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La, chúng tôi tiến
hành khảo sát 197 SV, trong đó có 70 SV năm thứ nhất, 67 SV năm thứ hai và 60 SV năm thứ ba từ tháng 8/2019
đến tháng 12/2019 bằng nhiều phương pháp nghiên cứu như: điều tra bằng bảng hỏi, quan sát, xử lí số liệu bằng
toán thống kê
2.2. Kết quả nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng tự học của sinh viên ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao đẳng Sơn La
Học tập là việc SV tiếp thu kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV và SV phải ý thức được rằng bản thân cần
học tập, tìm tòi, suy nghĩ thêm để hiểu rõ và mở rộng các kiến thức đã thu thập được. Bên cạnh mục đích học tập,
SV còn phải có tinh thần thái độ học tập đúng đắn, học đi đôi với hành, học ở nhà trường, học ngoài xã hội. Chính
vì thế, việc định hướng cho SV cách học tập và rèn luyện để trở thành những giáo viên mầm non có NL sau này
là điều hết sức quan trọng và thiết thực.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64
60
Qua khảo sát cho thấy, đa số SV cho rằng học tập là việc rất cần thiết và quan trọng không thể thiếu được trong
nhà trường, đặc biệt là ngành Giáo dục mầm non: có 168 SV được hỏi cho rằng việc học tập là rất cần thiết (chiếm
tỉ lệ 85,3%); 29 SV khẳng định là cần thiết (chiếm tỉ lệ 14,7%); đặc biệt không có SV nào cho rằng việc học tập
là ít cần thiết và không cần thiết. Điều đó chứng tỏ rằng, SV đều nhận thức được kết quả học tập là những kiến
thức gắn liền với nghề nghiệp của mình sau này. Đây cũng chính là động lực thúc đẩy GV nghiên cứu, tìm tòi,
vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học tích cực theo hướng tiếp cận NL cho SV ngành Giáo dục mầm non
để nâng cao chất lượng giáo dục.
Bên cạnh một số SV có tinh thần, thái độ, kĩ năng học tập tốt, vẫn còn khá nhiều SV ý thức học tập chưa cao,
chán học, lười học, chưa có khả năng TH; chưa chủ động tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình;
không có thói quen đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà, dẫn đến thực trạng thụ động
trong học tập. Kết quả khảo sát cũng cho thấy: có 59,9% SV có sự hứng thú trong học tập, 49,3% SV có ý thức
TH, 33% SV đã có sự chủ động tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình; 26,9% SV nghiên cứu
trước nội dung bài học. Tuy nhiên, tỉ lệ SV tích cực, chủ động cao nhất ở nhóm SV năm thứ ba, tiếp đến là nhóm
SV năm thứ hai và thấp nhất là ở nhóm SV năm thứ nhất. Có thể lí giải cho điều này là do SV năm thứ ba và năm
thứ hai đã bắt đầu học các môn chuyên ngành nên các em ý thức rất rõ về những kiến thức kĩ năng cần đạt được
để có thể đảm nhiệm tốt nhiệm vụ của mình sau khi tốt nghiệp đi làm, đồng thời các em đã đi thực tập và tích lũy
cho mình những kinh nghiệm học tập phù hợp. Hơn nữa, các môn chuyên ngành thường gần gũi với sở thích,
hứng thú và mong muốn của học sinh, SV nên việc học tập cũng dễ dàng tiếp thu và tạo động lực cho các em.
Còn các em SV năm nhất, do thay đổi môi trường sống và cách học tập nên nhiều SV chưa bắt nhịp ngay được
với cách học tập ở trường chuyên nghiệp khi phải tự chọn môn học, tự sắp xếp thời gian và tự nghiên cứu tài liệu.
Vì thế, nhiều SV sắp xếp thời gian không hợp lí trong học tập và đặc biệt là việc TH còn hạn chế dẫn đến kết quả
học tập chưa cao. Các môn học là các môn chung cũng dễ khiến SV thiếu sự tích cực, chủ động do ít gần gũi với
chuyên môn nghề nghiệp sau này. Đặc biệt, có nhiều SV cho biết do hoàn cảnh kinh tế gia đình còn gặp nhiều
khó khăn, các em phải vừa học vừa kiếm việc làm thêm để đảm bảo cuộc sống nên cũng không còn nhiều thời
gian dành cho việc TH của mình.
Khi được hỏi: “SV mong muốn điều gì ở GV để tăng cường tính tích cực trong học tập và phát huy được NL
TH của SV?” thì đa số SV được khảo sát mong muốn GV áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để tích cực
hoá người học trong các giờ học: có 82,72% SV mong muốn các bài giảng của GV gồm cả những tri thức mới
không có trong giáo trình; 76,6% SV thích GV hỏi, khuyến khích SV đặt câu hỏi, hướng dẫn SV đào sâu suy nghĩ
hơn là thuyết trình cả tiết học; 87,32% SV muốn khi bắt đầu mỗi môn học, GV thường xuyên kiểm tra, đánh giá
kết quả TH của SV mà giờ học trước GV đã yêu cầu, hướng dẫn phương pháp TH, cách nghiên cứu tài liệu tham
khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu; 73,1% SV mong muốn các môn học có nhiều giờ TH có hướng
dẫn của GV và giải đáp thắc mắc cho SV.
Như vậy, qua việc khảo sát có thể thấy: SV ngành Giáo dục mầm non chưa nhận thức được vai trò quan trọng
của việc TH, chưa thực sự tích cực chủ động trong TH và trong quá trình học tập SV có nhu cầu được hướng dẫn
được tổ chức và tham gia tích cực các hoạt động TH trên lớp cũng như được hướng dẫn TH tại nhà.
2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng học tập của sinh viên
2.2.2.1. Các yếu tố khách quan
- Thứ nhất, chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ vẫn giữ nguyên lượng kiến thức chuyên ngành mà SV phải
tích lũy, song thời lượng tiết học lại giảm xuống. Chương trình đề cao vai trò chủ động học tập của SV, giảm thời
gian trên lớp, tăng thời gian TH, tự nghiên cứu của SV và SV phải chủ động tiếp thu kiến thức, còn GV đóng vai trò
là người định hướng và trao đổi với SV những nội dung cơ bản của môn học. Tuy nhiên, nhiều SV vẫn chưa có thói
quen làm việc độc lập, không sử dụng tốt thời gian TH, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp dẫn đến chất lượng học tập
chưa cao, hơn nữa việc bố trí thời gian để GV giải đáp thắc mắc cho SV chưa thành nền nếp, kịp thời.
- Thứ hai, nhiều GV chưa phát huy tối đa hiệu quả tích cực của từng phương pháp dạy học mà chủ yếu vẫn
giảng dạy theo phương pháp truyền thống “đọc - chép”, cách truyền thụ kiến thức một chiều dẫn đến phương pháp
học tập của SV rất thụ động, không tập cho SV cách TH và thói quen TH, tự nghiên cứu và tư duy sáng tạo. Điều
này không chỉ đơn giản là sử dụng các công cụ trợ giúp giảng dạy như máy tính, máy chiếu, như một số GV vẫn
quan niệm như vậy đã đủ để SV hứng thú, tích cực học .
- Thứ ba, phong trào học tập trong tập thể SV có tác động trực tiếp kích thích tính tích cực của mỗi SV. Tuy
nhiên, mỗi người sẽ có sở thích và cách học tập riêng của mình. Mỗi người đều có thể lựa chọn cách TH một mình
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64
61
hoặc học theo nhóm. Cách học nào cũng có những ưu, khuyết điểm của nó nên cần lựa chọn một cách thông minh
và cân bằng giữa cả hai kiểu học này để phát huy và khắc phục ưu nhược điểm của chúng, đồng thời phải luôn nỗ
lực cố gắng học tập cho bằng bạn bè để đem lại kết quả học tập tốt hơn.
- Thứ tư, vấn đề đánh giá kết quả học tập của SV cũng hết sức quan trọng, bởi nó là khâu cuối cùng không
những đánh giá độ tin cậy kết quả học tập của quá trình dạy và học mà còn có tác dụng điều tiết trở lại quá trình
đào tạo. Việc đánh giá kết quả học tập của SV chính xác, khách quan, chân thực với nội dung và hình thức, phù
hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo sẽ có tác dụng trực tiếp tới SV, là động lực khích lệ, thúc đẩy không khí thi đua
sôi nổi, ý thức trách nhiệm và tinh thần tự giác, chủ động TH, tự rèn và sự tìm tòi sáng tạo không ngừng của SV,
từ đó giúp SV tìm ra nguyên nhân và giải pháp để việc học tập có hiệu quả.
- Thứ năm, sự quan tâm của gia đình có vai trò rất lớn trong việc định hướng phát triển của mỗi cá nhân. Thực
tế, nếu có sự quan tâm, chia sẻ về mặt tinh thần và cả vật chất từ phía gia đình sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
SV trong học tập. Một gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, cha mẹ quan tâm tới việc học của con là động lực tinh
thần giúp SV dù phải sống xa gia đình nhưng vẫn tập trung vào việc học để đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, gia
đình có kinh tế đảm bảo sẽ giúp cho SV những cơ sở vật chất đầy đủ, thuận lợi cho việc học, SV sẽ không bị chi
phối khi phải san sẻ thời gian học tập của mình để đi làm kinh tế đảm bảo cho cuộc sống của mình. Do đó, khi gia
đình là điểm tựa vững chắc cho con cái sẽ tạo tâm lí thoải mái, giúp SV có động lực học tập tốt hơn.
2.2.2.2. Các yếu tố chủ quan
- Thứ nhất, SV phải xác định được mục đích học tập của bản thân. Khi đăng kí vào học chuyên ngành đào tạo
giáo viên mầm non của Trường Cao đẳng Sơn La, SV phải xác định được rằng bản thân cần học tập, rèn luyện để
trở thành những giáo viên mầm non trong tương lai. Bởi vậy, SV cần phải hiểu về nghề giáo dục mầm non và hiểu
rõ nội dung, chương trình mà bản thân SV phải học tập và rèn luyện để trở thành những giáo viên mầm non có
NL sau này là điều hết sức quan trọng và thiết thực.
- Thứ hai, SV cần lựa chọn các phương pháp học tập phù hợp với bản thân để rèn được thói quen TH ở nhà và
phát huy tính tích cực học tập trên lớp thì sẽ khơi dậy tiềm năng vốn có của mình, đưa đến kết quả học tập tốt hơn.
- Thứ ba, để đạt kết quả cao trong học tập, SV phải có những kĩ năng học tập như: kĩ năng ghi chép, kĩ năng
đọc sách, kĩ năng tự nghiên cứu, kĩ năng ôn tập, kĩ năng TH trên thư viện, kĩ năng lựa chọn các thông tin trên
Internet và đặc biệt SV phải biết vận dụng, phối hợp các kĩ năng phù hợp với từng môn học.
- Thứ tư, vấn đề học tập là công việc đòi hỏi SV phải có một cơ thể khỏe mạnh với tinh thần sảng khoái và trí
tuệ minh mẫn. Nếu sức khoẻ không tốt ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiếp thu kiến thức. Có thể nhận thấy rõ
ràng, khi có vấn đề về sức khỏe, SV có thể phải nghỉ học, làm gián đoạn quá trình học tập, bỏ lỡ một số kiến thức
GV cung cấp trong giờ lên lớp. Hoặc nếu đến lớp hay TH ở nhà thì khi sức khoẻ không tốt cũng làm giảm khả
năng tập trung, khả năng ghi nhớ kiến thức dẫn đến kết quả học tập không hiệu quả.
- Thứ năm, phương pháp dạy học của GV phải tác động và khơi dậy sự tích cực TH trong mỗi SV, việc dạy
học phải tạo ra sự mới lạ và kích thích được tư duy sáng tạo cho SV.
2.3. Đề xuất một số giải pháp phát huy năng lực tự học cho sinh viên ngành Giáo dục mầm non, Trường Cao
đẳng Sơn La
2.3.1. Định hướng cho sinh viên phương pháp tự học
Muốn khả năng TH của SV được bồi dưỡng và phát triển, ngoài nhân tố nội lực của chính SV, còn có
một nhân tố quan trọng là sự định hướng của GV với SV. Do đó, ngay từ khi bắt đầu vào học tại Trường Cao
đẳng Sơn La, GV cần giúp đỡ SV học chuyên ngành đào tạo giáo viên mầm non xác định rõ động cơ và mục
đích học tập của mình thông qua tuần giáo dục công dân, thông qua các buổi sinh hoạt lớp đầu tiên, thông
qua học phần môn học, thông qua cố vấn học tập và GV chủ nhiệm, thông qua việc giao nội dung tự tìm hiểu
về ngành học để SV xác định rõ học để trở thành giáo viên mầm non thì phải có các phẩm chất yêu nghề,
yêu trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và NL giáo dục đảm bảo được những yêu cầu đổi mới về mục
tiêu, nội dung, phương pháp, kiểm tra, đánh giá các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non theo
đúng chương trình giáo dục mầm non. Từ đó, nâng cao nhận thức, sự hiểu biết tiến tới làm cho SV xác định
ý thức trách nhiệm của bản thân trong tổ chức thực hiện việc học tập và TH một cách tự giác, chủ động, vui
vẻ và trách nhiệm cao, trong 3 năm học tập tại trường không ngừng hoàn thiện trình độ đào tạo ban đầu,
vươn lên đáp ứng những nhu cầu mới.
- SV phải thông hiểu bản thân mình sau những tuần học đầu tiên: xem xét mình có những phẩm chất gì cần
bồi dưỡng khi làm giáo viên mầm non, khả năng TH theo tín chỉ như thế nào? Phương pháp học tập tại thư viện,
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 59-64
62
sự mạnh dạn chủ động trong học tập ra sao Tự khám phá ra điểm mạnh và sở thích của bản thân, tìm thấy điều
bản thân say mê trong môn học và biến việc học thành điều mình thích, chứ không chỉ là nghĩa vụ.
- SV phải tự xây dựng cho mình một kế hoạch rõ ràng và chi tiết để phân bổ thời gian sao cho hợp lí giữa các
môn học, địa điểm, thời gian, hình thức TH, đặc biệt là vào các thời điểm như kiểm tra hay thi cử. SV có thể sắp
xếp thời gian học phù hợp với mình nhất, học bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu mà bản thân thấy tiện lợi và hứng thú.
Bên cạnh đó, việc đặt mục tiêu phấn đấu hoàn thành tốt kế hoạch mà bản thân đã đề ra trước đó sẽ giúp SV biết
mình cần phải học vì cái gì, những kiến thức đó sẽ được áp dụng ra sao và đem lại kết quả gì. Khi đó, SV sẽ hào
hứng và chủ động trong việc học tập để có đủ kiến thức đạt mục tiêu đã đề ra.
- Lập kế hoạch TH một cách khoa học và hợp lí: tra cứu tài liệu, đọc hiểu tài liệu, tổng hợp nội dung tra cứu
được, liên kết các kiến thức bằng sơ đồ tư duy hoặc viết tóm tắt nội dung kiến thức. Việc sử dụng sơ đồ tư duy,
viết tóm tắt và ghi nhớ các ý chính của bài học sẽ giúp SV có thể tận dụng tối đa khả năng ghi nhận kiến thức
bằng hình ảnh của bộ não, đây được xem là một trong những phương pháp TH hiệu quả nhất.
- SV cần chủ động tìm kiếm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: Trên các trang mạng xã hội chính thống, trên
Internet, sự chia sẻ kiến thức khi tham gia học tập theo nhóm, xin ý kiến chuyên gia Việc làm này sẽ giúp kho
tri thức của SV đa dạng hơn, đồng thời có thể tiếp cận một vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau, từ đó đưa ra được
những phân tích, lập luận và chính kiến của riêng mình. Khi bản thân đã có được một phương pháp hay cộng thêm
sự kiên trì và cố gắng thì sẽ đạt được kết quả tốt trong học tập.
- Tìm phương pháp TH phù hợp với bản thân: Có thể bắt đầu học bất cứ lúc nào bản thân mình muốn và tự
nhủ phải cố gắng phấn đấu, phải “tập trung học” và làm ngay theo để rèn thói quen TH cho bản thân kết hợp với
các kĩ năng khi học ở trên lớp: cách lắng nghe GV, cách ghi chép, tập trung và phối hợp chặt chẽ các giác quan
vào quá trình thu nhận thông tin từ GV; đặt ra những câu hỏi nảy sinh trong quá trình nghe GV giảng để hoàn
thành bài học.
- SV phải phát huy tối đa nội lực và tận dụng triệt để các yếu tố khách quan, nhất là sự hướng dẫn của GV. Cụ
thể, cần xác định được mục đích, động cơ, nhu cầu học tập; xây dựng thời gian biểu hợp lý giữa các môn học, địa
điểm, thời gian, hình thức TH... Có thể tự sắp xếp thời khoá biểu cho riêng mình, có sự ưu tiên các môn học trong
quá trình TH và phải có ý chí hoàn thành thời gian biểu đã đặt ra.
- Có phương pháp học tập khoa học trên lớp: cách lắng nghe GV, cách ghi chép, tập trung và phối hợp chặt
chẽ các giác quan vào quá trình thu nhận thông tin từ GV, bạn học; đặt ra những câu hỏi nảy sinh trong quá trình
nghe GV giảng.
- Có phương pháp TH một cách khoa học và hợp lí: Biết cách đọc tài liệu để phát hiện bản chất của vấn đề,
biết cách tóm tắt và ghi chép. Ví dụ: ghi lại kiến thức bằng sơ đồ logic để thấy được mối liên hệ giữa các kiến
thức; giữa kiến thức mới tìm được và kiến thức đã biết; biết cách tổng kết như cho ví dụ minh họa và phản ví dụ
để giúp ghi nhớ và tái hiện; tự thắc mắc và đặt câu hỏi thắc mắc với bạn bè, thầy cô và những người am hiểu; vận
dụng kiến thức TH vào trả lời câu hỏi, giải bài tập, vào chuyên môn và thực tiễn cuộc sống.
- Nên tạo nhóm TH: là điều kiện cho các thành viên trong nhóm thảo luận, trao đổi, chia sẻ kiến thức kinh
nghiệm TH cùng nhau; hoặc học với bất kì ai mà bản thân mình thích, kết hợp với các hoạt động khác để cùng
giúp nhau bù đắp những phần còn yếu của từng người. TH thì phải tự giác, phải tự chủ, tự quản, khó khăn đến
mấy thì cũng phải động viên nhau vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
- Mạnh dạn tham gia vào các cuộc thi như: Nghiệp vụ sư phạm giỏi, SV tài năng, Thi làm đồ dùng dạy học, Thi
làm đồ chơi cho trẻ mầm non Đó cũng là những cơ hội để SV tự kiểm tra và rèn luyện NL nghề cho bản thân.
- Biết kết hợp học tập với hoạt động giải trí, thể thao, văn nghệ để giảm bớt áp lực trong quá trình TH.
- Chủ động tiếp cận với trẻ mầm non, với chương trình sách giáo khoa để có hứng thú học tập và mong
muốn trở thành giáo viên mầm non có tay nghề giỏi.
- Cần tự thể hiện và đánh giá được kết quả TH của mình.
2.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, hỗ trợ sinh viên trong quá trình rèn luyện kĩ năng tự học
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng thời gian học tập: Học tập là quá trình sử dụng thời gian kết
hợp với công sức. Học cách sử dụng thời gian hợp lí trong học tập có ý nghĩa quyết định hiệu quả học tập đối với
SV. SV cần được giúp đỡ để biết quý thời gian và biết cách sử dụng thời gian học tập một cách có hiệu quả nhất.
- Tôn trọng phương pháp học đa dạng của SV: Có nhiều cách thức học tập khác nhau, mỗi SV có những NL
và kiểu học tập khác nhau. Do vậy, SV cần có cơ hội để thể hiện tài năng riêng của họ và được học theo cách hữu
hiệu nhất với mỗi người rồi sau đó mới học theo cách học mới. Chẳng hạn, mỗi SV đều có phương pháp ghi chép
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 5