Tóm tắt: Thích ứng với biến đổi khi hậu là vấn đề cần thiết cho tất cả các lĩnh
vực hiện nay. Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện thực tế của từng vùng miền,
từng lĩnh vực để ứng dụng cho hợp lý, đạt hiệu quả cao. Thoát nước chống
ngập do tác động bởi biến đổi khí hậu cho các đô thị nói chung, các đô thị
thuộc các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ nói riêng vẫn còn là một bài toán
chưa có đáp án. Trong phạm vi bài viết này tác giả muốn nêu lên một số giải
pháp cơ bản, cần thiết và thực tế để góp phần vào công tác cải thiện môi
trường, đời sống cho các đô thị khu vưc Duyên Hải Nam Trung Bộ trong bối
cảnh hiện nay.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 442 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số giải pháp thoát nước chống ngập thành phố các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ thích ứng biến đổi khí hậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 99
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THOÁT NƯỚC CHỐNG NGẬP THÀNH PHỐ CÁC
TỈNH DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
ThS. Nguyễn Thế Hùng
Khoa Kỹ thuật Hạ tầng Đô thị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Thích ứng với biến đổi khi hậu là vấn đề cần thiết cho tất cả các lĩnh
vực hiện nay. Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện thực tế của từng vùng miền,
từng lĩnh vực để ứng dụng cho hợp l ý, đạt hiệu quả cao. Thoát nước chống
ngập do tác động bởi biến đổi khí hậu cho các đô thị nói chung, các đô thị
thuộc các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ nói riêng vẫn còn là một bài toán
chưa có đáp án. Trong phạm vi bài viết này tác giả muốn nêu lên một số giải
pháp cơ bản, cần thiết và thực tế để góp phần vào công tác cải thiện môi
trường, đời sống cho các đô thị khu vưc Duyên Hải Nam Trung Bộ trong bối
cảnh hiện nay.
Từ khoá: Chống ngập thành phố các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn
đề toàn cầu, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh
vực. Tác động của BĐKH trong lĩnh vực
xây dựng cũng như nhiều lĩnh vực khác
với quy mô toàn quốc và từng vùng
trong cả nước, tác động đối với các hệ
thống tự nhiên (giải ven biển, vùng núi
cao, hải đảo....), các hệ thống xã hội (nơi
cư trú, du lịch, các di sản văn hóa, di tích
lịch sử...) và các hệ thống cơ sở hạ tầng
(đê, đập, hồ chứa, hệ thống cấp thoát
nước, hệ thống cấp điện...).
Các tỉnh Duyên Hải Nam Trung
Bộ, có đủ các loại tài nguyên nước
như: Biển - Sông - Suối - Ao, Hồ.
Lượng mưa phân bố tại đây tương đối
cao, dải bờ biển kết hợp bờ sông dài
cũng như cốt địa hình của các thành
phố tương đối thấp so với mực nước
biển. Chính từ các yếu tố trên mà mỗi
mùa mưa kết hợp triều cường và mực
nước biển dâng làm cho các thành phố
lại bị ngập lụt, ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống của người dân và các công
trình hạ tầng kỹ thuật khác.
Để hạn chế các ảnh hưởng từ biến
đổi khí hậu như đã nêu ở trên đến thoát
nước chống ngập trong điều kiện thực tế
của các thành phố Duyên Hải Nam Trung
Bộ như hiện nay, cần có những giải pháp
cụ thể và thích ứng. Chính vì vậy vấn đề
"Một số giải pháp thoát nước chống
ngập thành phố các tỉnh Duyên Hải
Nam Trung Bộ thích ứng biến đổi khí
hậu" theo tác giả là cần thiết.
1. Vấn đề về biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu (climate change)
là sự thay đổi trạng thái khí hậu được
thể hiện bằng sự thay đổi của giá trị
trung bình/ hay những biến động các
tính chất của nó tồn tại một thời kỳ kéo
dài cỡ nhiều thập kỷ hoặc dài hơn.
Biến đổi khí hậu có thể do các quá
trình tự nhiên nội tại hay ngoại lực
hoặc những thay đổi nhân tạo các
thành phần của khí quyển hay sử dụng
đất. Biến đổi khí hậu hiện tại được
Công ước khung về biến đổi khí hậu
(UNFCCC) coi là sự thay đổi của khí
hậu do sự đóng góp trực hoặc gián tiếp
từ các hoạt động của con người làm
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 100
thay đổi các thành phần của khí quyển,
bổ sung thêm cho những biến động khí
hậu tự nhiên được quan trắc trong một
thời gian khá dài.
Các kịch bản phát thải khí nhà
kính được chọn để tính toán xây dựng
kịch bản biến đổi khí hậu cho Việt
Nam là kịch bản phát thải thấp (kịch
bản B1), kịch bản phát thải trung bình
của nhóm các kịch bản phát thải trung
bình (kịch bản B2) và kịch bản phát
thải trung bình của nhóm các kịch
bản phát thải cao (kịch bản A2). Tuy
nhiên để các giải pháp an toàn, tác
giả chọn kịch bản phát thải cao để
nghiên cứu và có thể được tóm tắt
như sau:
- Về nhiệt độ:
Bảng 1. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999
theo kịch bản phát thải cao (A2) tại Nam Trung Bộ
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Nam Trung Bộ 0,4 0,5 0,8 1,0 1,2 1,5 1,8 2,1 2,4
- Về lượng mưa:
Bảng 2. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải cao (A2) tại Nam Trung Bộ
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Nam Trung Bộ 0,7 1,0 1,2 1,7 2,1 2,5 3,0 3,6 4,1
- Nước biển dâng:
Bảng 3. Mực nước biển dâng (cm) so với thời kỳ 1980-1999
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Thấp (B1) 11 17 23 28 35 42 50 57 65
Trung bình (B2) 12 17 23 30 37 46 54 64 75
Cao (A1FI) 12 17 24 33 44 57 71 86 100
2. Vấn đề về ảnh hưởng do biến đổi
khí hậu
Đại đa số khu vực trung tâm các
thành phố của các tỉnh Duyên Hải Nam
Trung Bộ được xây dựng trên vùng đất
khá thấp, cốt địa hình của các khu vực
chỉ chênh lệch với mực nước biển dao
động từ - 0,2m đến + 2,5m. Chính vì
thế, hàng năm vào mùa mưa, kết hợp
triều cường và mực nước biển dâng do
ảnh hưởng biến đổi khí hậu (khoảng từ
tháng 9 đến tháng 11) mực nước các con
sông chảy qua thành phố dâng cao, nước
sông không thoát được do mặt nước biển
cao, theo các cống xả chảy ngược vào
các thành phố, đồng thời kết hợp với
lượng nước mưa chảy tràn trên bề mặt
gây ngập các thành phố.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 101
3. Một số giải pháp chống ngập
3.1. Giải pháp sử dụng của van khẩu
độ lớn để ngăn triều
Các thành phố thuộc các tỉnh
Duyên Hải Nam Trung Bộ thường có
các con sông chảy ngang (Sông Ba –
TP. Tuy Hòa, sông Cái – TP. Nha
Trang,...). Để thực hiện tốt việc chống
ngập khi nước biển dâng do BĐKH thì
tại các khu vực cửa sông này nên sử
dụng các cửa van có khẩu độ lớn để
ngăn triều, để đảm bảo khả năng chịu
lực lớn, ở đây ta nên sử dụng loại cửa
van có kết cấu cửa dạng giàn bản chắn
có khung chịu lực, khi làm việc được
nâng lên hạ xuống theo phương thẳng
đứng. Loại cửa van này với nguyên lý
hoạt động là khi ngăn nước cửa van hạ
xuống và cửa van kéo lên cao phía trên
không khi không ngăn nước.
Hình 1. Cửa van phẳng kéo đứng
(Vertical lift gate)
3.2. Giải pháp sử dụng cửa cống ngăn
triều tự đóng, mở cho các cống xả
Như phân tích ở phần nguyên
nhân gây ảnh hưởng, khi vào mùa mưa,
triều cường và mực nước biển dâng do
biến đổi khí hậu, mực nước sông dâng
cao làm cho nước từ sông chảy vào
thành phố. Chính vì vậy tác giả đề xuất
giải pháp sử dụng các cửa xả tự động
đóng, mở theo mực nước dâng cho các
cửa xả của cống thoát trên mạng lưới
thoát nước thành phố, nhằm ngăn không
cho nước chảy ngược vào thành phố khi
mực nước sông dâng cao.
Hình 2. Cửa cống tự động đóng mở khi
mực nước dâng
Đặc điểm của loại cống ngăn này
là tự động đóng lại khi nước bên ngoài
sông dâng lên và tự động mở ra khi
nước sông hạ xuống. Với loại cửa xả
này khi áp dụng ở những vùng bị ảnh
hưởng bởi thủy triều là hết sức phù hợp
vì chế tạo đơn giản, giá thành rẻ, vận
hành tự động.
3.3. Giải pháp quy hoạch hồ điều hòa
Giải pháp sử dụng hồ điều hòa
ngoài mục đích trữ nước chống ngập, hồ
điều hòa còn được xem là giải pháp hiệu
quả nhằm cải thiện môi trường, tăng mỹ
quan đô thị cho thành phố, khai thác và
sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
nước mưa.
Chưa hết, tận dụng nguồn nước từ
các hồ điều tiết này có thể còn phục vụ
cho công tác phòng cháy chữa cháy, cấp
nước, tưới nước cho cây xanh và bổ cập
nguồn nước dưới đất đang bị khai thác
quá mức như hiện nay.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 102
Để thích ứng với biến đổi khí hậu,
việc chủ động bổ sung các không gian
điều tiết trong quá trình chỉnh trang đô thị
là rất cần thiết, nếu không nói là giải pháp
duy nhất thay vì thích ứng bằng giải pháp
công trình với quy mô xác định.
Như vậy, để giải quyết giảm ngập
và thích ứng kịp thời với những kịch
bản biến đổi khí hậu, trong tương lai
cần phải thiết lập quy hoạch tổng thể
mạng lưới hồ điều tiết phù hợp cho các
thành phố thuộc các tỉnh Duyên Hải
Nam Trung Bộ.
Đặc điểm của các thành phố này
thường có địa hình tương đối bằng
phẳng, độ dốc địa hình nghiêng từ Tây
sang Đông. Tại khu vực trung tâm các
thành phố thường có các khu vực trũng.
Đây chính là điều kiện thuận lợi để quy
hoạch khu vực này thành hồ điều hòa,
thoát nước cho thành phố.
Theo phân tích về đặc điểm địa
hình, dự báo diện tích đất quy hoạch đến
năm 2025, cũng như bản đồ quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2025 và bản đồ
ngập lụt của các thành phố. Tác giả xin
đề xuất giải pháp quy hoạch các khu vực
trũng thành các hồ điều hòa, đặc biệt nên
quy hoạch thành chuỗi hồ điều hòa, bởi
vì khi thời gian mưa kéo dài lượng nước
tăng và tập trung về phía hạ lưu, để hạn
chế lượng nước tập trung phía hạ lưu thì
phần phí thượng lưu (vùng cao) phải có
các hồ để trữ nước.
Hình 3. Mặt cắt chuỗi hồ đề xuất điển hình hoạt động về mùa khô
Hình 4. Mặt cắt chuỗi hồ đề xuất điển hình hoạt động về mùa mưa
3.4. Giải pháp cải tạo nâng nền các bờ
kè dọc các bờ sông
Khu vực trung tâm các thành phố
này thường có những dòng sông chảy
xuyên từ phía Tây đổ ra biển. Tuy nhiên
đối với phía Đông giáp biển, được chắn
bởi dải bờ cát dài và tương đối cao hoặc
có quy hoạch các con đường phục vụ du
lịch, dân sinh nên phần nào cũng đã
ngăn được mực nước biển dâng khi
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 103
triều cường. Tuy vậy hai bên bờ các con
sông giáp thành phố vẫn tồn tại các bờ
kè với cao trình hạn chế làm cho nước
có thể chảy tràn vào thành phố mỗi mùa
mưa. Chính vì vậy, theo đánh giá về
tình hình biến đổi khí hậu nước biển
dâng đến năm 2025 (nước biển dâng
0,17m), vào thời điểm này kết hợp mưa
lũ từ thượng nguồn các con sông đỗ về
sẽ gây ngập cho thành phố. Để hạn chế
vấn đề này tác giả xin đề xuất đắp nền
thân các bờ kè, trên mặt các bờ kè cần
trồng cây, cỏ tạo cảnh quan cho đô thị
và tăng độ bền cho thân các bờ kè.
3.5. Giải pháp bố trí trạm bơm
chống ngập
Đối với các thành phố này thường
có cốt địa hình tương đối thấp so với
mực nước biển, việc chống ngập cho
thành phố về mùa mưa kết hợp triều
cường và mực nước biển dâng do biến
đổi khí hậu là không thể không sử dụng
trạm bơm. Tuy nhiên, trạm bơm phải
được bố trí một cách hợp lý và kết hợp
với công tác điều hòa nhờ hệ thống
chuỗi hồ điều hòa để công suất của trạm
bơm chống ngập là nhỏ nhất thì hiệu
quả kinh tế mang lại là cao nhất. Đối
với việc thoát nước chống ngập cho các
thành phố như đã phân tích ở trên, với
giải pháp này tác giả đề xuất nên đặt
trạm bơm chống ngập tại các hồ ở phía
hạ lưu và bơm thẳng nước ra biển đông
khi có ngập.
3.6. Giải pháp quy hoạch bề mặt
tự thấm
Ai cũng biết cây xanh, mặt cỏ có
nhiều lợi ích, giảm lượng bụi, cung cấp
oxy, hấp thụ tiếng ồn... Đặc biệt là, cây
xanh có khả năng lưu trữ một phần nước
mưa trên cây, giữ cho mặt đất xốp cùng
với hệ thống rễ cây đâm sâu xuống đất,
giúp cho nước mưa thấm nhanh xuống
đất, làm giảm và làm chậm tốc độ nước
chảy tràn, giảm lượng nước úng ngập
trong đô thị. Chính vì vậy việc quy
hoạch bề mặt tự thấm bằng cây xanh,
mặt cỏ cũng chính là giải pháp cần
thiết trong công tác thoát nước chống
ngập cho các thành phố nói chung, cho
các thành phố các tỉnh Duyên Hải Nam
Trung Bộ nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Báo cáo thuyết minh quy hoạch sử dụng đất của các thành phố các tỉnh duyên hải
Nam Trung Bộ đến năm 2025.
[2] Dự án thoát nước và chống ngập cho đô thị vừa và nhỏ ở Việt Nam, tháng 10/2012.
[3] Bộ Tài nguyên Mô trường. 3/2012. Kịch bản Biến đổi Khí hậu, nước biển dâng
cho Việt Nam.
[4] Nguyễn Đăng Tính, Dương Văn Viện. 2008. Một số giải pháp chống ngập ở thành
phố Hồ Chí Minh, Cơ sở 2 – Trường Đại học Thủy Lợi.
[5] Nguyễn Hồng Tiến. 2011. BĐKH với xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật khóa tập
huấn nâng cao năng lực của ngành xây dựng ứng phó với biến đổi khí hậu.
[6] Nguyễn Trọng Phượng. 2012. Một số giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong
quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị.
[7] Quyết định số 158/2008/QĐ - TTg ngày 02 tháng 12 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH.
[8] Trần Thị Lan Anh. 2011. Tác động của BĐKH và nước biển dâng đối với quy
hoạch và phát triển đô thị tại các vùng ven biển Việt Nam.