Tóm tắt: Quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện tư duy lý luận của cán bộ lãnh
đạo, quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở nói riêng là một quá trình
phức tạp. Do nhiều nguyên nhân, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ở nước ta
thường mắc phải hạn chế như "bệnh kinh nghiệm", "bệnh giáo điều", thực chất là
tách rời lý luận với thực tiễn, xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin
dẫn đến những hạn chế, thậm chí là những sai lầm trong tư duy lý luận. Bài viết
đề cập đến một số hạn chế trong tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ
sở và đề xuất một số biện pháp khắc phục nhằm góp phần nhận diện, đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa
XII của Đảng.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số hạn chế trong tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở và biện pháp khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 28
MỘT SỐ HẠN CHẾ
TRONG TƯ DUY LÝ LUẬN
CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CƠ SỞ VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
PHẠM XUÂN THIÊN *
Tóm tắt:
Quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện tư duy lý luận của cán bộ lãnh
đạo, quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở nói riêng là một quá trình
phức tạp. Do nhiều nguyên nhân, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ở nước ta
thường mắc phải hạn chế như "bệnh kinh nghiệm", "bệnh giáo điều", thực chất là
tách rời lý luận với thực tiễn, xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin
dẫn đến những hạn chế, thậm chí là những sai lầm trong tư duy lý luận. Bài viết
đề cập đến một số hạn chế trong tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ
sở và đề xuất một số biện pháp khắc phục nhằm góp phần nhận diện, đấu tranh
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa
XII của Đảng.
Từ khóa: Hạn chế, tư duy lý luận, cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở.
ghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII
khẳng định: “sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm
chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể
dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực
xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”(1).
* Tiến sĩ, Trường Chính trị tỉnh Hải Dương.
1 - ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII, Sách do Văn phòng Trung
Thực tiễn cho thấy, sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" đã và đang trở thành “hiện thực
nguy hiểm” và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa "
trong nội bộ là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ, nhất là ở cán bộ lãnh đạo, quản
ương Đảng ấn hành, Hà Nội, 2016, tr. 23.
N
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 29
lý cơ sở hiện nay do nhiều nguyên nhân. Để
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, việc
nhận thức những nguyên nhân dẫn đến sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có ý
nghĩa rất quan trọng. Bài viết này đề cập đến
những hạn chế trong tư duy lý luận của cán
bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở như một trong
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" nội bộ và đề xuất một
số biện pháp khắc phục.
Tư duy lý luận suy đến cùng là hình thức
phát triển cao nhất của tư duy; là quá trình
phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo hiện
thực khách quan một cách gián tiếp, mang
tính trừu tượng và khái quát cao bằng các
khái niệm, phạm trù, quy luật. Tư duy lý luận
có vai trò hết sức to lớn trong nhận thức và
cải tạo thế giới. Ph.Ăngghen viết: “một dân
tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học
thì không thể không có tư duy lý luận”(2). Trong
quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi
mới đất nước, ngay từ thời kỳ đầu, Tổng Bí
thư Nguyễn Văn Linh đã khẳng định: “Muốn
đổi mới tư duy và đổi mới xã hội trước hết phải
đổi mới tư duy lý luận”(3). “Nhưng tư duy lý
luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng
năng lực của người ta có mà thôi. Năng lực ấy
cần phải được phát triển hoàn thiện và muốn
hoàn thiện nó thì cho đến nay, không còn một
cách nào khác hơn nghiên cứu toàn bộ triết học
thời trước”(4).
2 - C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, 1994, tr. 489.
3 - Nguyễn Văn Linh: Cách mạng tháng Mười và cách
mạng Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, 1987, số 11, tr. 6.
4 - C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, 1994, tr. 487.
Quá trình hình thành, phát triển và hoàn
thiện tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo,
quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý
cơ sở nói riêng là một quá trình biện chứng,
phức tạp. Đặc biệt, phải trải qua hai quá
trình: một là, quá trình học tập lý luận, tri
thức khoa học; hai là, quá trình vận dụng rèn
luyện trong thực tiễn; không ngừng nâng cao
bản lĩnh, phương pháp luận, phong cách làm
việc,... Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ
sở ở nước ta hiện nay chủ yếu được trưởng
thành từ thực tiễn công tác; ít được đào tạo
và cập nhật kiến thức một cách cơ bản,
thường xuyên... nên thường mắc phải hạn
chế là “bệnh kinh nghiệm” và “bệnh giáo
điều”. Cả hai căn bệnh này thực chất là đã
tách rời lý luận với thực tiễn; xa rời những
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, dẫn
đến những hạn chế, thậm chí là sai lầm trong
tư duy lý luận. Hạn chế trong tư duy lý luận
của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở hiện nay
thường được biểu hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, khuynh hướng “đơn giản hóa”,
thậm chí “tầm thường hóa” tư duy lý luận
Những biểu hiện của việc đơn giản hóa,
tầm thường hóa tư duy lý luận là ở chỗ,
người ta thường vận dụng rập khuôn, máy
móc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Người ta thường cố gắng minh họa,
viện dẫn những luận điểm có sẵn mà không
quan tâm xem xét đến những điều kiện, tình
hình cụ thể. Trong nhiều trường hợp, người
ta đã “cắt xén” những tư tưởng; minh họa
sai,... dẫn đến hiểu sai những luận điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Có thể thấy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực
tư tưởng, lý luận cũng diễn ra vô cùng khó
khăn, quyết liệt; việc kiên định và đấu tranh
không khoan nhượng để bảo vệ những
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 30
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, nhất là đối
với những người làm công tác lý luận trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, nếu chúng ta
tuyệt đối hóa những quan điểm, tư tưởng đó
đến mức “không bàn cãi”, “bất khả xâm
phạm” đã xong xuôi hoàn chỉnh mà thực tiễn
phải “khuôn theo”, hay chỉ một mực đi tìm
những tư liệu, những sự kiện mang tính
“thuận chiều” hay ra sức “tô hồng” cho
những luận điểm đó bất chấp cả lôgic thông
thường thì rất dễ dẫn đến những hành động
sai lầm. Trong thực tiễn, việc vận dụng rập
khuôn, máy móc những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin rất có thể dẫn con người
đến những suy diễn chủ quan và kết luận phi
lý, không có cơ sở khoa học.
Thứ hai, giản đơn trong lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên của nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Thời kỳ trước đổi mới, một giai đoạn khá
dài chúng ta đã nhận thức giản đơn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội; không xác định được rõ, thậm chí lẫn
lộn nhiệm vụ cụ thể trong các giai đoạn lịch
sử cụ thể và không thấy được mối quan hệ
giữa các nhiệm vụ đó.
Giản đơn hóa trong tư duy lý luận biểu
hiện ở tư tưởng chủ quan, nóng vội, đốt cháy
giai đoạn. Người ta đã đem đồng nhất hoàn
toàn lý tưởng xã hội chủ nghĩa với chủ nghĩa
xã hội hiện thực. Đồng thời, không thấy
được chủ nghĩa xã hội là một xã hội “cần
phải” và “có thể” (tôi xin nhấn mạnh từ có
thể) được xây dựng trên thực tế. Chính việc
lý tưởng hóa “chủ nghĩa xã hội hiện thực” đã
làm cho không ít người, trong đó có cả cán
bộ, đảng viên khi đứng trước những hạn chế
của “chủ nghĩa xã hội hiện thực” và sự tuyên
truyền chống phá của các thế lực thù địch thì
không khỏi hoang mang, dao động, hoặc chí
ít cũng “không phân biệt được” giữa đúng và
sai. Một số lại có thể “bị choáng ngợp” trước
hiện thực của chủ nghĩa tư bản.
Giản đơn hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội
và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn
được biểu hiện ở việc đồng nhất những mối
quan hệ khác nhau; không thấy hết tính chất
khó khăn, lâu dài, phức tạp của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Thứ ba, tư duy lý luận còn mang nặng bệnh
“chủ quan duy ý chí” xa rời thực tiễn và những
quy luật khách quan
Sức mạnh của tư duy lý luận là ở chỗ nó
xuất phát từ cuộc sống và cùng với hiện thực
cuộc sống nó không ngừng được bổ sung,
phát triển. Nhờ phản ánh được những quy
luật khách quan nên nó có thể chỉ đạo, soi
đường cho thực tiễn phát triển. Tuy nhiên,
tư duy lý luận trong cán bộ lãnh đạo, quản lý
cơ sở ở nước ta hiện nay có những biểu hiện
xa rời, vi phạm, bất chấp quy luật khách
quan. Chính hạn chế này làm cho tư duy lý
luận thiếu tính khoa học, mang nặng tính
chủ quan, thậm chí “ảo tưởng”. Về mặt lý
luận, người ta luôn khẳng định phải xuất
phát từ thực tế “tôn trọng và hành động theo
quy luật khách quan” nhưng trong thực tiễn
họ lại hành động theo sự “điều khiển” của ý
chí, nguyện vọng chủ quan, rơi vào “chủ
quan duy ý chí”.
Những quy luật cơ bản trong sự phát triển
của lịch sử xã hội loài người đôi khi đã không
được nhận thức, hay được nhận thức một
cách nửa vời, không được vận dụng đúng
đắn, kịp thời và làm đến nơi đến chốn đã dẫn
đến sự ngộ nhận, đồng nhất hay không phân
định được giữa đường lối chủ trương với
những quy luật khách quan của sự phát triển;
ngộ nhận những cái không phải là quy luật
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 31
với quy luật. Tư duy lẫn lộn quy luật với cái
không phải là quy luật thì nhất định không
thể là cơ sở khoa học cho việc hoạch định
đường lối và chính sách phát triển kinh tế -
xã hội đúng đắn.
Xa rời quy luật cũng chính là xa rời cuộc
sống, không dám nhìn thẳng vào sự thật để
tìm cách giải quyết mà thường né tránh quy
luật; lấy sai lầm thay thế cho sai lầm trước
đây,... Bên cạnh đó, những biểu hiện tiêu cực,
tham nhũng, lãng phí cũng ngày càng làm
trầm trọng thêm những hạn chế; làm suy
giảm lòng tin của quần chúng nhân dân.
Thứ tư, tư duy lý luận mang tính cực đoan,
phiến diện, một chiều
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
với điểm xuất phát thấp từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến. Đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở hầu hết
xuất thân từ giai cấp nông dân. Tâm lý của
người sản xuất tiểu nông đã in đậm suy nghĩ,
tình cảm tư tưởng và tác động ảnh hưởng
không nhỏ đến tư duy lý luận của cán bộ, đảng
viên. Vì vậy không tránh khỏi những hạn chế
khi “tả”, khi “hữu” hay bốc đồng mà cũng dễ
nản chí. Những hạn chế của tâm lý của người
sản xuất nhỏ cùng với sự non kém về lý luận
làm cho tư duy lý luận của họ thường mang
tính cực đoan, phiến diện, một chiều.
Tính cực đoan, phiến diện, một chiều làm
cho người ta không có thể và cũng không
muốn xem xét các sự vật, hiện tượng trong
mối liên hệ phổ biến và trong sự vận động
phát triển không ngừng. Tư duy cực đoan,
phiến diện chỉ thấy một mặt; chỉ căn cứ vào
một mặt nào đó của hiện thực mà “thổi
phồng”, cường điệu hóa” nên dẫn đến tình
trạng chuyển từ “cực” này sang “cực” kia; khi
thành công thì say sưa, ảo tưởng; khi thất bại
thì chán nản, bi quan; khi bị phê bình thì làm
bừa, làm ẩu.
Thậm chí, có lúc người ta còn nâng tính
phiến diện ấy lên thành “một thứ lý luận”
nhằm biện minh cho những sai lầm, khuyết
điểm; rằng “cực đoan, phiến diện, một
chiều” là một hạn chế tất yếu, không thể
tránh khỏi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Thứ năm, tư duy lý luận yếu tính phê phán
và tính chiến đấu
Bản chất khoa học và cách mạng của tư
duy lý luận được thể hiện rõ nét ở tính phê
phán và tính chiến đấu. Có thể khẳng định,
chính tính phê phán và tính chiến đấu đã
giúp cho tư duy lý luận có thể khắc phục
được và vượt lên khỏi sự khuôn mẫu, giáo
điều, xơ cứng.
Thực tế, do nhiều nguyên nhân mà tư duy
lý luận trong cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ở
nước ta thường có tính chất xuôi chiều, “nói
sao, nghe vậy”. Một số tư tưởng, quan điểm
có tính phê phán và tính chiến đấu (ở đây
chỉ đề cập tới những tư tưởng, quan điểm có
cơ sở khoa học) nhưng lại rất có thể bị “quy
chụp” như là một sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, xét lại. Từ đó, không khỏi tạo ra
thói “lười suy nghĩ”, làm gì cũng lười suy
nghĩ. Từ đó, không ít kẻ xu thời, vụ lợi, lợi
dụng để tán dương.
Hạn chế về tính phê phán và tính chiến
đấu có thể làm cho người ta thấy “đúng”
không thể, không muốn và cũng không dám,...
khẳng định, bênh vực, bảo vệ... Đồng thời, thấy
“sai” cũng không thể, không muốn, không
dám đấu tranh. Chính sự “mất dân chủ trong
lý luận” này từng bước, từng bước có thể bóp
chết tư duy lý luận và năng lực sáng tạo.
Những hạn chế tư duy lý luận của cán
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 32
bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở nêu trên có thể
làm cho nhiều người không hiểu hết bản
chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Có thể người ta đã “rất tin
tưởng” và mong muốn “đi nhanh” đến chủ
nghĩa xã hội, nhưng đó chỉ là niền tin và
khát vọng “cảm tính” chứ không phải là
niền tin dựa trên sự hiểu biết khoa học.
Đồng thời, sự hạn chế về lý luận khoa học
cùng với tính bảo thủ, trì trệ; tâm lý tiêu
cực, bất mãn,... đã đẩy nhanh và làm trầm
trọng hơn sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ hiện nay.
Để khắc phục những hạn chế trong tư
duy, lý luận; góp phần đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong nội bộ hiện nay chúng
ta cần quan tâm một số biện pháp cơ bản
sau đây:
Một là, các cấp ủy Đảng ở cơ sở cần thực
hiện tốt dân chủ hóa trong hoạt động lý luận
Dân chủ hóa trong hoạt động lý luận có
ý nghĩa rất quan trọng đến khắc phục
những hạn chế trong tư duy lý luận. Bản
thân sự phát triển của tư duy lý luận luôn
đòi hỏi phải có không gian sáng tạo và thực
hành dân chủ. Mọi lý luận chỉ trở thành
khoa học thực sự khi nó phù hợp với hiện
thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm. Vì vậy, tuyệt đối không thể giải
quyết được những vấn đề lý luận và thực
tiễn theo cách áp đặt, chủ quan duy ý chí.
Dân chủ hóa trong hoạt động lý luận sẽ
có tác dụng mở rộng không gian cho sự tìm
tòi, sáng tạo. Tuy nhiên, dân chủ hóa ở đây
phải được chế định bằng những nguyên
tắc, luật pháp và các chuẩn mực,... trong
hoạt động lý luận.
Hai là, mỗi cán bộ, đảng viên cần thường
xuyên rèn luyện tính trung thực khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên quyết đấu tranh
với những biểu hiện chống phá, xuyên tạc,...
của các thế lực thù địch
“Linh hồn” của học thuyết Mác - Lênin
là phương pháp tư duy biện chứng khoa
học. Tính cách mạng và khoa học của học
thuyết Mác - Lênin luôn đòi hỏi mỗi cán
bộ, đảng viên phải thường xuyên học tập,
rèn luyện phương pháp tư duy khoa học để
phân tích, khái quát thực tiễn, xây dựng
những quan điểm lý luận mới phù hợp với
thực tiễn Việt Nam hiện nay. Việc thường
xuyên tổng kết thực tiễn, rút ra lý luận là
một yêu cầu khách quan để không ngừng
bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ba là, cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở cần
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách,
pháp luật của Đảng và nhà nước phù hợp với
thực tiễn địa phương
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu
vực có nhiều biến động nhanh chóng, phức
tạp khó lường, việc nghiên cứu, vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Có thể khẳng định, việc
kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin là nhân tố bảo đảm chắc chắn
nhất để cách mạng giành thắng lợi. Vì vậy,
nếu cán bộ lãnh đạo quản lý xa rời lý luận
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, coi
thường hoặc giáo điều, rập khuôn, máy
móc thì trong mỗi lĩnh vực và vị trí công
tác nhất định sẽ khó tránh khỏi những sai
lầm và phải trả giá.
Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo, quản
lý cơ sở cần khắc phục một số hạn chế:
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
TẠP CHÍ GIÁO DỤC LÝ LUẬN - SỐ 269+270 (QUÝ III+IV/2017) 33
“bệnh kinh nghiệm”, “bệnh giáo điều” và
“bệnh chủ quan duy ý chí”,... Đây là những
hạn chế cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở
thường rất hay mắc phải và là kẻ thù của tư
duy lý luận khoa học.
Bốn là, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả tự
phê bình và phê bình trong hoạt động của các
cấp uỷ Đảng, chính quyền; trong cán bộ, công
chức ở cơ sở
Trong tự phê bình và phê bình phải
khách quan, trung thực, tránh nể nang, né
tránh, ngại va chạm. Đặc biệt, khi đã có
những biểu hiện sai lầm, hạn chế về tư
tưởng, lý luận; “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” phải đấu tranh kiên quyết; trong đấu
tranh cần vận dụng linh hoạt các biện pháp
giải quyết cho phù hợp. Đồng thời, có biện
pháp, cơ chế cụ thể nhằm động viên,
khuyến khích và bảo vệ những người trung
thực, thẳng thắn, dám đấu tranh.
Năm là, kết hợp chặt chẽ việc khắc phục
những hạn chế trong tư duy lý luận với đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về chính
trị tư tưởng, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” nội bộ cán bộ, đảng viên ở cơ sở
Từ lâu, các thế lực thù địch, chống phá
cách mạng Việt Nam đã ra sức thúc đẩy sự
suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” nội
bộ ta như là một trong những nội dung
trọng yếu của chiến lược diễn biến hòa
bình. Để thực hiện mưu đồ đó, chúng
không ngừng đầu cơ, tích lũy, thổi phồng
những sai lầm, khuyết điểm, nhất là những
sai lầm, khuyết điểm lớn và kéo dài về chủ
trương, chính sách; sai lầm có tính chiến
lược về chỉ đạo và tổ chức thực hiện,... của
Đảng ta, cũng như những sai lầm khuyết
điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên
có chức, có quyền nhằm khoét sâu mâu
thuẫn nội bộ, đẩy nhanh sự suy thoái về
chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Chính vì vậy,
khắc phục những hạn chế trong tư duy lý
luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở rất
cần phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu
tranh làm thất bại những âm mưu, thủ
đoạn thúc đẩy sự suy thoái về chính trị tư
tưởng, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” của các thế lực thù địch.
Tư duy lý luận khoa học có thể được coi
là nền tảng cho việc hình thành bản lĩnh,
năng lực, phẩm chất và nhân cách của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung,
cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở nói riêng.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH và
hội nhập quốc tế, những yêu cầu của việc
rèn luyện và phát triển tư duy lý luận ở đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở ngày càng cao.
Tuy nhiên, những hạn chế trong tư duy lý
luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở đã
và đang là những cản trở lớn đến việc phát
huy vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ
sở. Đồng thời, kìm hãm sự phát triển kinh
tế - xã hội ở nhiều địa phương hiện nay.
Sự hình thành và phát triển của tư duy lý
luận khoa học phải được gắn với sự phát
triển của tri thức và kinh nghiệm thực tiễn.
Vì vậy, cùng với việc nắm vững lý luận khoa
học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở cần
không ngừng học tập, trau dồi đạo đức cách
mạng, vận dụng sáng tạo lý luận để đề ra
những nhiệm vụ và giải pháp phù hợp với
tình hình cụ thể của địa phương.