Chính sách dân tộc là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới (1986) đến nay, bên cạnh việc tiếp tục
quan điểm nhất quán về vấn đề dân tộc và chính sách đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước
ta đã có nhiều chủ trương chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số. Bài viết đánh giá những
thành tựu, hạn chế về quá trình thực hiện chính sách dân tộc trong phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo; giáo dục và nguồn nhân lực; xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại các
tỉnh khu vực Tây Bắc hiện nay, đồng thời nêu ra các giải pháp khắc phục những hạn chế đó.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề thực hiện chính sách dân tộc ở Tây Bắc hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
35Ngày nhận bài: 2/10/2017; Ngày phản biện: 25/11/2017; Ngày duyệt đăng: 15/12/2017
(1) Học viện Dân tộc; e-mail: nguyenanhson@cema.gov.vn
(2) Học viện Dân tộc; e-mail: lethanhbinh@cema.gov.vn
1. Đặt vấn đề
Khu vực Tây Bắc bao gồm các tỉnh: Điện
Biên, Hòa Bình, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên
Bái. Đây là địa bàn sinh sống của hơn 40 dân
tộc anh em khác nhau như Kinh, Thái, Mường,
Mông, Dao, Tày, Nùng, Khơ Mú, Cống, La Ha,
La Hủ, Lào, Hoa, Mảng Toàn khu vực có diện
tích tự nhiên trên 5,6 triệu ha và trên 3,5 triệu dân
(theo kết quả điều tra năm 2009). Cơ cấu dân số
ở vùng nông thôn chiếm 86,1%, thành thị 13,9%.
Tây Bắc là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng
về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối
ngoại của cả nước, có vai trò quyết định đối với
môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ.
Với vị trí chiến lược quan trọng và tiềm năng
to lớn đó, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới
(1986) đến nay, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển vùng
Tây Bắc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX chỉ rõ: “Phát
triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân
tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách
dân tộc”1.
Quán triệt chủ trương của Đảng, Chính phủ
đã có nhiều chương trình, chính sách, dự án phát
triển vùng dân tộc thiểu số nói chung, khu vực
Tây Bắc nói riêng như: Chương trình 134 về đất
1. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Tài liệu nghiên cứu
các Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2003, tr. 77.
ở, đất sản xuất cho đồng bào; Chương trình 135
(giai đoạn I, II, III); Chương trình giảm nghèo
nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo theo
Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP; Nghị quyết trồng
mới 5 triệu ha rừng theo Quyết định 661/QĐ-TTg
ngày 29/7/1998, được sửa đổi, bổ sung tại Quyết
định 100/2007/QĐ-TTg; Quyết định 3307/VPCP,
ngày 25/4/2013 của Văn phòng Chính phủ về việc
thu hút đầu tư, đảm bảo an sinh xã hội và phát
triên kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc; Quyết định
167 về hỗ trợ làm nhà ở; Quyết định 102 về hỗ
trợ trực tiếp con giống và cây trồng; Quyết định
số 1489/QĐ-TTg ngày 08 tháng 10 năm 2012 của
Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình
mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2012 – 2015; Quyết định số 1722/QĐ-TTg
về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc
gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020;
Chương trình Xây dựng nông thôn mới
Đi cùng với các chính sách chung, để phát
triển bền vững các tỉnh của khu vực, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành các Quyết định quy hoạch
tổng thể như: Quyết định số 230/2006/QĐ-TTg
ngày 23/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Điện Biên thời kỳ 2006 – 2020.
Quyết định số 917/QĐ-TTg ngày 11/6/2013 của
Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hòa Bình
đến năm 2020. Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày
28//1/2013 của Thủ tướng Chính phủ về Phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Lai Châu đến năm 2020. Quyết định số
1636/QĐ-TTg ngày 22/9/2015 của Thủ tướng
Chính phủ về Phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
Ở TÂY BẮC HIỆN NAY
Nguyễn Anh Sơn(1)
Lê Thanh Bình(2)
Chính sách dân tộc là một bộ phận quan trọng trong chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới (1986) đến nay, bên cạnh việc tiếp tục
quan điểm nhất quán về vấn đề dân tộc và chính sách đoàn kết dân tộc, Đảng và Nhà nước
ta đã có nhiều chủ trương chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số. Bài viết đánh giá những
thành tựu, hạn chế về quá trình thực hiện chính sách dân tộc trong phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo; giáo dục và nguồn nhân lực; xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại các
tỉnh khu vực Tây Bắc hiện nay, đồng thời nêu ra các giải pháp khắc phục những hạn chế đó.
Từ khóa: Chính sách dân tộc; khu vực Tây Bắc; Tây Bắc; xóa đói giảm nghèo.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
36 Số 20 - Tháng 12 năm 2017
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Quyết
định số 1959/QĐ-TTg, ngày 29/10/2013 của
Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La
đến năm 2020. Quyết định số 116/2006/QĐ-TTg
ngày 26/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về Phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006 – 2020.
Nhờ thực hiện tốt chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước nên trong những năm qua các
tỉnh khu vực Tây Bắc đã có bước phát triển đáng
ghi nhận. Nền kinh tế nhiều thành phần bước đầu
hình thành và phát triển, chuyển dịch theo hướng
sản xuất hàng hoá. Nhiều vùng chuyên canh cây
trồng, sản xuất với số lượng hàng hoá lớn đã hình
thành. Kết cấu hạ tầng của khu vực được cải thiện
rõ rệt, góp phần đắc lực phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống
của đồng bào. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học
và xoá mù chữ đã hoàn thành, mặt bằng dân trí
được nâng cao. Hệ thống trường phổ thông Dân
tộc nội trú được hình thành và phát triển đến các,
tỉnh huyện, vùng, tạo nguồn đào tạo đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số; đời sống văn hoá của đồng
bào các dân tộc trong khu vực được nâng cao một
bước, văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu
số được tôn trọng, bảo tồn và phát huy. Hệ thống
Phát thanh, Truyền hình ở khu vực không ngừng
phát triển. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngày
càng được quan tâm; các loại dịch bệnh cơ bản
được ngăn chặn. Quyền bình đẳng giữa các dân
tộc trong khu vực đã được thực hiện đầy đủ trong
mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, đoàn kết giữa các
dân tộc tiếp tục được củng cố. Hệ thống chính trị
các cấp của khu vực Tây Bắc được tăng cường và
củng cố, nhất là ở cấp cơ sở. Công tác phát triển
Đảng trong vùng đồng bào dân tộc được chú trọng;
tình hình chính trị, trật tự xã hội ở vùng dân tộc
và miền núi cơ bản ổn định. Quốc phòng, an ninh
được giữ vững. Đây chính là kết quả mà đường lối,
chủ trương đúng đắn của Đảng mang lại.
2. Một số kết quả đạt được và hạn chế, yếu
kém trong triển khai thực hiện chính sách dân
tộc khu vực Tây Bắc
2.1. Về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo
Trong những năm qua, kinh tế khu vực Tây
Bắc đã có những chuyển biến khá tích cực trên
nhiều lĩnh vực. Trong chăn nuôi, hiện nay Tây
Bắc đang từng bước chuyển dịch theo hướng
mô hình trang trại, gia trại như nuôi cá hồi, cá
tầm đang được phát triển mạnh ở Lào Cai, Lai
Châu, Yên Bái, Sơn La; mô hình tự sản xuất vịt
giống tại xã Thanh Hưng, huyện Điện Biên với
lợi nhuận thu được hàng năm khoảng 50 triệu
đồng Trong nông nghiệp, các địa phương trong
khu vực đã xây dựng các Đề án phát triển sản xuất
theo hướng hàng hóa như: Đề án tái cơ cấu nông
nghiệp của tỉnh Sơn La, tập trung vào việc phát
triển các cây công nghiệp: mía, cà phê, sắn; cây
ăn quả ôn đới; rau an toàn; chăn nuôi đại gia súc.
Đề án phát triển nông nghiệp của tỉnh Điện Biên
đến năm 2020 định hướng đến 2025 tập trung vào
quản lý, khai thác rừng bền vững; cải thiện thủy
lợi; thúc đẩy sản xuất đại gia súc; hình thành liên
kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đối với một
số mặt hàng chủ lực như lúa, gạo, cà phê, chè,
cao su. Mô hình trồng chuối của đồng bào Mông
ở huyện Mường Khương (Lào Cai) đã cho thu
nhập từ 50 triệu đồng – 200 triệu đồng/hộ/năm
Theo đó, thu nhập bình quân đầu người của khu
vực đạt khoảng 28,8 triệu đồng năm 2016 (tăng 2
triệu đồng so với năm 2015).
Đi cùng với phát triển kinh tế, công tác xóa
đói giảm nghèo của khu vực Tây Bắc trong những
năm qua cũng đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận. Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo ở các tỉnh khu vực
Tây Bắc đã giảm từ 39,4% năm 2006 xuống còn
29,14% năm 2015. Riêng tỷ lệ hộ nghèo của các
huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-
CP của Chính phủ trong vùng Tây Bắc đã giảm
xuống còn 31,94% vào cuối năm 2014, bình quân
giảm trên 6%/năm, vượt so với mục tiêu giảm
bình quân 4%/năm theo Nghị quyết.
Dù đã đạt được kết quả đáng ghi nhận, nhưng
công tác xóa đói giảm nghèo của khu vực Tây
Bắc chưa thật sự bền vững, tỷ lệ tái nghèo còn
cao. Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội, hết năm 2016, cả nước có 31.212 hộ
tái nghèo, đồng thời phát sinh thêm 153.537 hộ
nghèo, các tỉnh khu vực Tây Bắc vẫn đứng tốp
đầu về số hộ tái nghèo và nghèo phát sinh. Trong
“Tổng số 31.212 hộ tái nghèo năm 2016 của cả
nước thì 4 tỉnh (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai
Châu) đã có 11.956 hộ, chiếm tỷ lệ hơn 38,3% số
hộ tái nghèo của cả nước”2.
2.2. Về giáo dục, đào tạo
Triển khai thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước về phát triển giáo dục vùng
dân tộc thiểu số như: Chính sách về phát triển hệ
thống mạng lưới trường lớp, tăng cường cơ sở
vật chất các cơ sở giáo dục; chính sách đối với trẻ
2. Vũ Thị Hồng Đam, Lối mở nào cho giảm nghèo bền vững
ở Tây Bắc? https://www.baomoi.com/loi-mo-nao-cho-giam-
ngheo-ben-vung-o-tay-bac/c/23137890.epi.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
37Số 20 - Tháng 12 năm 2017
em, học sinh; chính sách đối với nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục công tác ở vùng dân tộc thiểu
số, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục tại vùng
cao, vùng dân tộc thiểu số nên giáo dục và đào
tạo ở vùng Tây Bắc luôn duy trì và nâng cao chất
lượng. Trong đó, “Việc kiên cố hóa trường, lớp
học và nhà công vụ giáo viên tiếp tục được quan
tâm, nhất là tại vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó
khăn. Các địa phương đã tập trung rà soát, sắp
xếp quy mô, mạng lưới trường, lớp học đảm bảo
hợp lý, hiệu quả và chất lượng”3. Vì vậy, “Tính
đến năm 2015, toàn vùng đạt chuẩn phổ cập giáo
dục trung học cơ sở; tỷ lệ huy động học sinh trong
độ tuổi: mẫu giáo đạt 85 - 95%, tiểu học đạt 97 -
99%; trung học cơ sở đạt 85 - 90%; trung học phổ
thông đạt 55 - 60%; củng cố hệ thống trường phổ
thông dân tộc nội trú, trường phổ thông bán trú ở
tất cả huyện nghèo trong vùng. Nâng tỷ lệ lao
động qua đào tạo đạt 25 - 30% và 100% cán bộ
xã được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ vào
năm 2010 và 45% lao động qua đào tạo vào năm
2015”4.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được,
công tác giáo dục đào tạo của khu vực Tây Bắc
vẫn còn nhiều, hạn chế, yếu kém. Số người không
đi học chiếm tỷ lệ 26,8%. Chất lượng và hiệu quả
giáo dục còn thấp do tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu
ban cao. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ
thông trong mấy năm gần đây của nhiều tỉnh
trong vùng luôn ở trong nhóm thấp nhất nước.
Vì vậy, tỷ lệ thí sinh trúng tuyển vào các trường
đại học và cao đẳng hằng năm còn rất thấp (bình
quân 9 - 10% tổng số thí sinh dự thi, có tỉnh chỉ
đạt 4-5%) nên quy mô học sinh, sinh viên của
các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng sư
phạm của hầu hết các tỉnh còn nhỏ. Chất lượng
đầu vào của sinh viên theo hệ cử tuyển chưa cao.
Sự phối hợp giữa nhà trường và địa phương trong
quá trình đào tạo cử tuyển, công tác quản lý học
sinh dự bị chưa chặt chẽ.
Bên cạnh đó, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng và
chưa đồng bộ về cơ cấu. Giáo viên là người dân
tộc thiểu số ở các bậc học sau trung học cơ sở còn
chiếm tỷ lệ thấp. Điều kiện đảm bảo cho giảng
dạy và học tập, cơ sở vật chất trường học còn
3. Thế Duyệt: Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
về văn hóa, giáo dục ở vùng Tây Bắc,
vn/van-ban-chinh-sach/giam-sat-viec-thuc-hien-chinh-sach-
phap-luat-ve-van-hoa-giao-duc-o-vung-tay-bac/118863.html
4. Đào Phan Thắng: Thực trạng Giáo dục nghề nghiệp vùng
Tây Bắc, 371/Thuc-trang-
Giao-duc-nghe-nghiep-vung-Tay-Bac.html
nhiều thiếu thốn. Nhiều xã vùng cao còn thiếu
phòng học, phòng thí nghiệm, thư viện và các
công trình phụ trợ khác. Hằng năm, đầu tư cho
các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường đại học,
cao đẳng và trung học chuyên nghiệp của các tỉnh
trong khu vực mới đáp ứng được khoảng 50%
đến 60% nhu cầu.
2.3. Về phát triển nguồn nhân lực, giải quyết
việc làm
Triển khai chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực dân tộc
thiểu số như: Đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao
động nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg;
Nghị quyết số 52/NQ-CP ngày 15 – 6 – 2016 của
Chính phủ về Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân
lực các dân tộc thiểu số giai đoạn 2016 – 2020,
định hướng đến năm 2030. Trong những năm qua,
các địa phương khu vực Tây Bắc đã có các đề án
như: Đề án Đào tạo 100 cán bộ trẻ sau đại học
giai đoạn 2012-2015, định hướng đến 2020 của
Ban Tổ chức Tỉnh ủy Yên Bái; Đề án Phát triển
nguồn nhân lực giai đoạn 2005 – 2010 và Đề án
Quy hoạch đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, cán
bộ chuyên môn và kỹ thuật tỉnh Lào Cai giai đoạn
2011-2015; Quyết định số 537/QĐ-UBND ngày
26/6/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên
về việc Phê duyệt đề án phát triển nguồn nhân
lực tỉnh điện biên đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020. Nghị quyết số 23/NQ-HĐND ngày 12
– 12 – 2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La
về Phát triển nguồn nhân lực tỉnh Sơn La giai
đoạn 2011 - 2020
Nhờ có các kế hoạch, đề án cụ thể của các địa
phương nên nguồn nhân lực dân tộc thiểu số khu
vực Tây Bắc đã qua đào tạo cũng tăng dần qua
các năm. Trong đó, Hoà Bình và Điện Biên là
hai tỉnh có tỷ lệ nhân lực trên 15 tuổi đã qua đào
tạo vượt mức trung bình cả nước. Tại Lai Châu,
“Năm 2015, số lao động được đào tạo nghề và giải
quyết việc làm tăng: đào tạo nghề cho 5.077 lao
động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo, tập huấn
lên 38%; giải quyết việc làm cho 6.600 lao động,
trong đó xuất khẩu 100 lao động”5. Cùng thời
gian này, “Yên Bái tạo việc làm mới cho 18.174
lao động (xuất khẩu lao động đạt 742 người), đạt
42,8%, vượt mục tiêu đề ra”6. Đến hết năm 2015,
toàn tỉnh Lào Cai “Có 18.671 người có trình độ
đại học, sau đại học, tăng 6.044 người so với năm
5. Uỷ ban nhân dân tỉnh Lai Châu: Báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng - an
ninh năm 2014, kế hoạch năm 2015,
6. Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái: Báo cáo tình hình kinh tế - xã
hội năm 2014, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2015.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
38 Số 20 - Tháng 12 năm 2017
2010. Trong đó, khu vực công có 1.083 người,
tăng 400 người so với năm 2010; tập trung chủ
yếu ở các ngành: Giáo dục, y tế và một số ngành
khác. Khu vực tư có 731 người, tăng 200 người
so với năm 2010; tập trung chủ yếu ở các ngành:
Công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và xây
dựng. Về, đội ngũ công nhân kỹ thuật tay nghề
cao, nhân viên có chuyên môn cao cũng đã có sự
tăng lên về số lượng, đội ngũ này tập trung chủ
yếu ở khu vực tư với 1.140 người, tăng khoảng
400 người so với năm 2010; được phân bố ở
nhiều lĩnh vực, ngành nghề, tập trung nhiều ở các
ngành: Xây dựng chiếm 19,4, công nghiệp chiếm
18,5%, thương mại chiếm 50,9% và ngành khác
chiếm 8,7%”7.
Bên cạnh đó, lực lượng trong độ tuổi lao động
của vùng dân tộc thiểu số đã qua đào tạo vẫn còn
thấp so với yêu cần thực tiễn. Chẳng hạn như tại
tỉnh Sơn La, dù “Từ năm 2011-2015 đã mở được
119 lớp đào tạo nghề cho 1.941 học viên tham
gia. Các ngành nghề đào tạo chủ yếu như kỹ thuật
trồng ngô thương phẩm, kỹ thuật nề xây dựng,
chăn nuôi gia súc, gia cầm, sửa chữa xe máy, gò
hàn, may công nghiệp”8. Tuy nhiên, các ngành
nghề đào tạo trên chủ yếu là lao động phổ thông,
có tay nghề và trình độ thấp, trong khi nguồn lực
chất lượng cao phục vụ cho các ngành như khoa
học, kỹ thuật, quản lý kinh tế - xã hội vẫn còn
thiếu và yếu.
2.4. Về phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc
thiểu số
Để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự xã hội
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các địa phương
của khu vực Tây Bắc luôn coi trọng chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là người dân tộc thiểu
số. Vì vậy, tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số của khu
vực trong những năm qua cũng tăng lên đáng kể:
“Cán bộ dân tộc thiểu số cấp tỉnh ở Hòa Bình
là 357/1.283 (chiếm tỷ lệ 27,82%); Yên Bái là
175/1.468 cán bộ (chiếm tỷ lệ 12%); Lai Châu
là 1.332/6.787 cán bộ (chiếm tỷ lệ 19,62%); Lào
Cai có 1.371 người (chiếm tỷ lệ 18,36%). Cán bộ
DTTS cấp huyện: Hòa Bình là 790/1.078 cán bộ
(chiếm tỷ lệ 73,28%); Lai Châu là 3.049/11.037
cán bộ (chiếm tỷ lệ 27%); Lào Cai có 3.686
người (chiếm tỷ lệ 22,57%). Cán bộ DTTS cấp xã
chiếm tỷ lệ cao, tỉnh Sơn La có số cán bộ DTTS
7. Nguyễn Thị Hồng Minh: Đào tạo nhân lực chất lượng cao
ở Lào Cai: Cần hướng tiếp cận mới,
vn/xa-hoi/dao-tao-nhan-luc-chat-luong-cao-o-lao-cai-can-
huong-tiep-can-moi-412180.html
8. Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La: Báo cáo số 261/BC-UBND,
Tlđd.
cấp xã là 4.054/4.521 người chiếm tỷ lệ cao nhất
(89,67%); Điện Biên và Lai Châu cũng có tỷ lệ
trên 80%; Lào Cai có 60,13%”9.
Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề đạt được,
hiện nay, đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số
ku vực Tây Bắc vẫn còn thiếu về số lượng, yếu
về chất lượng, nhất là trình độ của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý, “Tỷ lệ cán bộ là người dân
tộc thiểu số trong UBND tỉnh, huyện còn thấp
(khoảng 11,32%). Trong tổng số 48.200 cán bộ
dân tộc thiểu số cấp xã, số người có trình độ học
vấn trung học cơ sở chiếm 45,7%, tiểu học 18,7%,
chỉ có 1,9% có trình độ cao đẳng và đại học”10.
3. Giải pháp thực hiện
Để khắc phục những khó khăn hạn chế, thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, giáo dục, đào tạo, và nguồn nhân lực, xây
dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, trong thời
gian tới, các tỉnh khu vực Tây Bắc cần thực hiện
tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:
3.1. Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 – 2020.
Đồng thời phân cấp quản lý, tăng cường vai trò
của các địa phương, chuyển từ hỗ trợ sang đầu tư.
Đây là điều hết sức cần thiết, vì trong thời gian
tới, các chính sách hỗ trợ giảm nghèo cần gắn
với các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
áp dụng cách tiếp cận tăng trưởng bao trùm toàn
diện. Bên cạnh đó, cần phát triển các mô hình
kinh tế trong cộng đồng, xây dựng đội ngũ doanh
nhân dân tộc thiểu số.
Việc phát triển các mô hình giảm nghèo là một
yếu tố hết sức cần thiết, bởi vấn đề này không chỉ
có sức “lan tỏa” mà việc đưa những người “đi
tiên phong” trong việc áp dụng các giống mới, kỹ
thuật mới vào phát triển kinh tế gia đình cho cộng
đồng học hỏi là điều hết sức cần thiết. Bởi một
trong những nội dung quan trọng mà Chương
trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn
2016-2020 đặt ra là phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo, tinh thần tự lực của người dân trong
quá trình thực hiện giảm nghèo tại địa phương.
Bản thân người dân dù ở vùng khó khăn và vùng
nghèo, vẫn có nội lực và tiềm năng nhưng chưa
được phát huy đầy đủ vì thiếu điều kiện. Đó là sức
lao động chưa được khai thác hiệu quả vì thiếu kỹ
9. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – Đại học quốc
gia Hà Nội. Đề tài KHCN – TB.20X/13-18: Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Lý luận và thực tiễn về chính sách đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ người DTTS nhằm phát triển bền
vững vùng Tây Bắc. Hà Nội, tháng 9/2016, tr.41.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thống kê giáo dục và đào tạo
năm học 2014-2015. Hà Nội, 2015.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
39Số 20 - Tháng 12 năm 2017
năng và kiến thức. Đó là nguồn kiến thức và văn
hó