Một số yếu tố tác động đến học phí của cơ sở giáo dục đại học

Chính sách học phí có ý nghĩa lớn trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, tăng tự chủ cho cơ sở giáo dục đại học, đồng thời thể hiện sự chia sẻ trách nhiệm của người dân với Nhà nước trong bối cảnh nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Nguồn thu từ học phí đã hỗ trợ tích cực cho chi thường xuyên cho các cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, do mức học phí thấp nên nguồn thu học phí vẫn chưa bảo đảm được yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cụ thể: - Học phí hiện hành chưa đảm bảo chi phí đào tạo mà cơ sở giáo dục đại học bỏ ra trong quá trình đào tạo ở tất cả các hệ và hình thức đào tạo. Học phí trở thành khoản thu “tượng trưng” đối với các cơ sở giáo dục đại học. Do mức học phí thấp, không ít cơ sở giáo dục đã đặt ra những khoản thu ngoài qui định (thu tiền nước uống, tiền học thêm, tiền vệ sinh và bảo vệ trường, tiền giữ xe đạp, xe máy, tiền điện, giấy thi, thi lại v.v.). Nhiều trường cao đẳng, đại học công lập cũng tự qui định thêm các khoản thu khác ngoài học phí để bù đắp chi phí đào tạo, hiện tượng lạm thu đã gây nên bức xúc trong dư luận.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 93 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số yếu tố tác động đến học phí của cơ sở giáo dục đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 2 (27) - Thaùng 3/2015 46 MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HỌC PHÍ CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC NGUYỄN VIỆT HÀ (*) TÓM TẮT Chính sách học phí có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, tăng tự chủ cho cơ sở giáo dục đại học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Trong bài viết này, chúng tôi bàn về các yếu tố tác động đến học phí của cơ sở giáo dục đại học. Từ khóa: chủ trương xã hội hóa giáo dục, học phí của cơ sở giáo dục đại học ABSTRACT The tuition policy has a great significance to the implementation of the educational socialization, the increase of the autonomous and self responsibility of the higher education establishments, contributing to enhancement of human resource training. With the paper, we would like to discuss the elements affecting the intuition policy of higher education establishment. Keywords: tuition policy, autonomous and self responsibility, higher education establishments *Chính sách học phí có ý nghĩa lớn trong việc thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, tăng tự chủ cho cơ sở giáo dục đại học, đồng thời thể hiện sự chia sẻ trách nhiệm của người dân với Nhà nước trong bối cảnh nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Nguồn thu từ học phí đã hỗ trợ tích cực cho chi thường xuyên cho các cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, do mức học phí thấp nên nguồn thu học phí vẫn chưa bảo đảm được yêu cầu mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cụ thể: - Học phí hiện hành chưa đảm bảo chi phí đào tạo mà cơ sở giáo dục đại học bỏ ra trong quá trình đào tạo ở tất cả các hệ và hình thức đào tạo. Học phí trở thành khoản (*) ThS, Vụ Kế hoạch Tài chính Bộ Giáo dục và Đào tạo thu “tượng trưng” đối với các cơ sở giáo dục đại học. Do mức học phí thấp, không ít cơ sở giáo dục đã đặt ra những khoản thu ngoài qui định (thu tiền nước uống, tiền học thêm, tiền vệ sinh và bảo vệ trường, tiền giữ xe đạp, xe máy, tiền điện, giấy thi, thi lại v.v...). Nhiều trường cao đẳng, đại học công lập cũng tự qui định thêm các khoản thu khác ngoài học phí để bù đắp chi phí đào tạo, hiện tượng lạm thu đã gây nên bức xúc trong dư luận. Khung học phí hiện hành chưa thể hiện tính chất vùng cho các cơ sở giáo dục đại học ở các địa bàn kinh tế-xã hội khác nhau. Khung học phí quy định chưa phù hợp với mức giá bình quân và thu nhập bình quân của người dân tăng hàng năm. Mức học phí thấp, so với các lần điều chỉnh lương tối thiểu hàng năm, nên tỷ trọng chi 47 tiền lương giảng viên và cán bộ quản lý trong chi phí thường xuyên chưa tăng lên tương ứng, các cơ sở giáo dục đại học thiếu kinh phí chi cho các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và quản lý nhà trường. Học phí trở thành rào cản lớn đối với quá trình xây dựng và phát triển của trường đại học, cao đẳng. Nếu một trường đại học muốn tăng chất lượng đào tạo thì cần phải giảm quy mô nhưng điều này làm giảm nguồn thu của trường. Thực tế cho thấy các cơ sở giáo dục đại học đã kích thích tăng quy mô bất chấp các điều kiện đảm bảo chất lượng. Mức học phí được quy định đồng loạt giữa các cơ sở giáo dục đại học, các trường ở phân tầng chất lượng cao không được thu học phí cao, điều này chưa khuyến khích việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất l- ượng đạo tạo, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các cơ sở giáo dục đại học trong nước. Khung học phí hiện tại chưa phù hợp và hội nhập với giáo dục đại học quốc tế. Để xây dựng mức học phí phù hợp cần căn cứ trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và đơn giá của các yếu tố liên quan đến chi phí đào tạo. Tuy nhiên hiện nay, nhà nước chưa ban hành định mức kinh tế – kỹ thuật và đơn giá của các yếu tố chi phí đào tạo nên việc ban hành mức học phí cần cân nhắc các yếu tố sau: 1.XÂY DỰNG MỨC H C PHÍ THEO HƯỚNG TIẾP CẬN VỚI CÁC NGUYÊN TẮC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG GIÁO DỤC ĐẠI H C. Mức học phí cần được áp dụng một cách linh hoạt phù hợp với tình hình cung cầu trên thị trường dịch vụ giáo dục. Nhà nước với tư cách là người quy định khung học phí giáo dục đại học cần có những thông tin tin cậy và cập nhật về tình hình cung cầu trên thị trường dịch vụ đào tạo đại học để cung cấp cho các cơ sở giáo dục đại học xác định mức học phí cụ thể và thông tin đến người học để chọn lựa cơ sở đào tạo. 2. TƯƠNG QUAN CUNG CẦU VỀ DỊCH VỤ GIÁO DỤC ĐẠI H C Khung học phí cần phản ánh tương quan cung cầu về dịch vụ giáo dục ở những ngành đào tạo, khu vực và các thời kỳ khác nhau nhằm điều tiết cung cầu ở một mức độ nhất định đồng thời sử dụng học phí để phát đi những tín hiệu thích hợp để cả người học và cơ sở đào tạo cân nhắc khi đưa ra các quyết định liên quan đến việc học và đào tạo. 3. CHI PHÍ PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO. Mức học phí giáo dục đại học phải căn cứ trên chi phí phát sinh trong quá trình đào tạo. Học phí phải bù đắp được các chi phi về khấu hao tài sản cố định dùng trong đào tạo và chi phí thường xuyên được tính theo năm lịch 4. TỶ LỆ HOÀN VỐN Mức Học phí cho giáo dục đại học phải tính tới tỷ lệ hoàn vốn đối với cả Nhà nước và người học 5. MỨC TÍCH LŨY CỦA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI H C Mức Học phí phải đảm bảo mức tích lũy cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu tự chủ tài chính cho các cơ sở giáo dục đại học. 6. MỨC THU NHẬP CỦA NHÂN DÂN Học phí phải được xác định phù hợp với thu nhập của người dân nói chung, khả năng chi trả của người học. Chi tiêu cho giáo dục là một phần quan trọng trong tổng chi tiêu của người dân. Mức chi tiêu này phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó thu nhập là một trong những yếu tố quyết định khả năng chi trả của người học. 7. KHẢ NĂNG NGÂN SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC 48 Học phí được xác định phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước. Hiện nay theo định hướng chung, ngân sách nhà nước chỉ chi trả cho giáo dục phổ thông và giáo dục phổ cập còn đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học công lập mức thu học phí thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và người học. Nhà nước sẽ giảm dần các khoản cấp phát trực tiếp cho các cơ sở giáo dục đại học. Thay vào đó, Nhà nước áp dụng cơ chế đặt hàng đối với các cơ sở đào tạo về số lượng người được đào tạo ở những ngành nghề đặc thù nhất định. 8. YẾU TỐ NGÀNH NGHỀ VÀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO Học phí nên phân biệt theo nhóm ngành nghề, hệ, chương trình đào tạo và đối tượng người học. Sự phân biệt giá dịch vụ giáo dục theo ngành nghề và chương trình đào tạo nhằm phản ánh sự khác biệt về chi phí đào tạo giữa các nhóm ngành, nghề đào tạo. Xây dựng mức học phí phù hợp là động lực để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sơ giáo dục đại học và đảm bảo quyền lợi của người học. Tuy nhiên đi kèm với việc xây dựng mức học phí phù hợp, các cơ sở giáo dục đại học cần sử dụng hiệu quả nguồn thu học phí và các nguồn thu hợp pháp khác để đầu tư phát triển nhà trường./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiên Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. 2. Đỗ Minh Cương, Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Viện khoa học giáo dục (1996), Những nhân tố mới về giáo dục trong công cuộc đổi mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. * Ngày nhận bài: 07/1/2015 Biên tập xong: 01/3/2015 Duyệt đăng: 20/3/2015 TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 2 (27) - Thaùng 3/2015 49 TRƯƠNG VĨNH KÝ VỚI VIỆC TRUYỀN BÁ CHỮ QUỐC NGỮ VÀ PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT TRẦN THỊ ÁNH (*) TÓM TẮT Vào nửa cuối thế kỷ XIX, cùng với quá trình xâm lược và bình định của thực dân Pháp, văn minh phương Tây cũng được du nhập vào Việt Nam. Trước làn sóng văn minh mới, tư tưởng của trí thức Việt Nam có sự phân hóa: một bộ phận cương quyết cự tuyệt và chống đối; một bộ phận hồ hởi đón nhận và tích cực hợp tác với ngoại bang; một bộ phận khác chủ trương tiếp nhận văn minh phương Tây với ý nguyện canh tân đất nước, thúc đẩy dân tộc mau chóng tiến bộ. Trương Vĩnh Ký là trường hợp tiêu biểu cho bộ phận này. Trương Vĩnh Ký hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau: văn hóa, báo chí, ngôn ngữ, triết học, giáo dục, ngoại giao, Trong khuôn khổ của bài viết, tác giả tập trung đề cập hoạt động và đóng góp của Trương Vĩnh Ký trên hai lĩnh vực có mối liên hệ mật thiết với nhau: tuyên truyền, phát triển chữ Quốc ngữ và truyền bá nền giáo dục Pháp - Việt nhằm mục đích khai thông dân trí, nâng cao dân đức. Từ khóa: Trương Vĩnh Ký, trí thức, văn minh phương Tây, chữ Quốc ngữ, giáo dục Pháp – Việt. ABSTRACT During the second half of the nineteenth century, with the invasion and pacification of French colonialism, Western civilization was also introduced into Vietnam. Facing the new wave of civilization, there were differences in ways of ideas among Vietnamese intellectuals: some totally denied and opposed strongly; the others cheerfully welcomed and actively cooperated with foreign forces; and the rest were willing to receive the estern civilization with intentions of national reforms, promote peoples’ spirits to gain progress rapidly. Truong Vinh Ky is a typical example of this group. Truong Vinh Ky worked on many different areas: culture, media, language, philosophy, education and diplomacy, etc. In the framework of the article, the author has concentrated on activities and contribution of Truong Vinh Ky on two closely- related areas: the propagation and development of the national language education and dissemination of France – Vietnam education, which aim to improve people’s knowledge and morals . Keywords: Truong Vinh Ky, intellectuals, Western civilization, national language script, French - Vietnamese education. (*) ThS, Trường Đại học Sài Gòn 50 1. TRƯƠNG VĨNH KÝ TIẾP THU NỀN GIÁO DỤC TÂY H C Trương Vĩnh Ký (1837-1898) tên thật là Trương Chánh Ký (còn gọi là Pétrus Ký), sinh tại thôn Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), trong một gia đình theo đạo Công giáo, là con thứ ba của Lãnh binh Trương Chánh Thi và bà Nguyễn Thị Châu. Năm 1942, Trương Vĩnh Ký theo học chữ Hán với một thầy đồ trong làng. Ông học giỏi, đọc viết thông thạo, hiểu rõ nghĩa lí những sách mình đã học. Năm 1946, cha đột ngột qua đời, Trương Vĩnh Ký được mẹ gửi gắm cho Cố Tám - một thầy tu Công giáo người Việt. Từ đây, Trương Vĩnh Ký bắt đầu tiếp xúc và gắn bó với nền giáo dục Tây học, được học chữ Quốc ngữ và sau đó được vào học ở Chủng viện Cái Nhum dưới quyền cai quản của thừa sai người Pháp Borelle. Năm 1848, linh mục người Pháp Charles Esmile Bouillveaux (còn gọi là Cố Long) đưa Trương Vĩnh Ký sang học trường Pinhalu (Campuchia). Năm 1851, ông được cấp học bổng sang học ở Đại chủng viện Dulaima nằm trên đảo Pénang (Malaixia), là trường chuyên đào tạo tu sĩ cho vùng Viễn Đông. Tại đây, Trương Vĩnh Ký được học chữ La-tinh và thần học, được tiếp xúc với văn minh phương Tây và quan hệ mật thiết với nhiều bạn học châu Á. Chính trong những năm tháng học tại trường này, Trương Vĩnh Ký đã có được nền tảng kiến thức xuất sắc về văn hóa và ngôn ngữ để trở thành nhà bác ngữ học sau này. Khi đề tựa cho tác phẩm Trương Vĩnh Ký - Biên khảo của Lê Thanh, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố đã nhận xét: Trương Vĩnh Ký “là một nhà bác ngữ uẩn súc, nước ta chưa từng có bao giờ” [8; tr 3]. Năm 1858, Trương Vĩnh Ký tốt nghiệp nhưng không ra làm linh mục vì phải về nước chịu tang mẹ. Sau đó, ông dạy học ở trường dòng Cái Nhum. Dạy học chưa được bao lâu thì Pháp đánh thành Gia Định. Lúc này, ở Cái Mơn đang xảy ra nhiều cuộc vây ráp các phần tử Công giáo bị tình nghi. Vì thế, Trương Vĩnh Ký phải chạy lên Sài Gòn. Thời điểm này, Pháp đang cần người dịch các văn kiện từ tiếng Pháp ra tiếng Việt và ngược lại. Với suy nghĩ: “phải làm việc để giúp đỡ đồng bào, nhất là lúc Pháp và Nam triều chưa hiểu nhau, chưa thành thật với nhau” [6; tr 244], năm 1860 ông nhận lời làm thông ngôn cho chỉ huy trưởng quân đội Pháp Jauréguiberry. Sự kiện này đánh dấu buổi đầu hợp tác giữa Trương Vĩnh Ký với chính quyền thực dân. Tuy hợp tác với người Pháp nhưng Trương Vĩnh Ký chưa bao giờ tham gia vào ngạch quan lại hành chính do Pháp bổ nhiệm, không nhập quốc tịch Pháp, không mặc Âu phục như những thầy thông, thầy ký thời bấy giờ [5; tr 43]. Thời gian làm thông ngôn của Trương Vĩnh Ký không dài, mặc dù người Pháp hết lời ca ngợi ông là thông ngôn rất xuất sắc. Ông chuyển sang viết giáo trình về ngôn ngữ, lịch sử, địa lí vừa để giảng dạy cho một số người Pháp, vừa tham gia giảng dạy ở các trường Thông ngôn, Sư phạm thuộc địa, Tham biện hậu bổ. Trương Vĩnh Ký còn đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng như Quản nhiệm tờ Gia Định báo (từ 1869), Giám đốc trường Sư phạm thuộc địa (1871), điều hành trường Tham biện Hậu bổ (1873), Ủy viên Hội đồng Thường trực Học chính cao cấp (1874), Năm 1886, Tổng Công sứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ Paul Bert mời ông ra Huế giúp việc. Trương 51 Vĩnh Ký được vua Đồng Khánh phong chức Cơ mật Viện tham tá và sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ. Nhưng chỉ được sáu tháng, ông về lại Sài Gòn tiếp tục dạy học và viết sách. Từ năm 1887 cho đến khi tạ thế (01/9/1898), Trương Vĩnh Ký đã dành toàn bộ thời gian để biên soạn sách, trong đó, nhiều công trình có thể sử dụng làm sách giáo khoa hoặc sách đọc thêm phục vụ cho việc học tập. 2. NHỮNG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN BÁ CHỮ QUỐC NGỮ VÀ PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC PHÁP – VIỆT CỦA TRƯƠNG VĨNH KÝ 2.1. Viết sách, dịch thuật và dạy học Ngay khi tiếng súng xâm lược của quân viễn chinh Pháp đang nổ ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, người Pháp đã bắt đầu thiết lập nền móng cho chế độ cai trị thực dân trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục. Bằng việc loại bỏ dần giáo dục Nho học, đồng thời cho thành lập các trường trung học (để dạy tiếng bản xứ cho sĩ quan Pháp) và mở trường thông ngôn ở Sài Gòn (nhằm đào tạo viên chức người bản xứ cho bộ máy cai trị thuộc địa), nền giáo dục Pháp – Việt ở vùng đất Nam Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung từng bước hình thành.31 Việc biên soạn sách giáo khoa và tài liệu nhập môn phục vụ cho mục đích đào tạo nói trên đòi hỏi phải có người thông thạo cả chữ Hán, chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; mặt khác phải am hiểu văn hóa bản xứ, văn hóa phương Tây và có khả năng sư phạm tốt. Trương Vĩnh Ký – một trong số 3 Cũng cần nói thêm rằng, trong số các trí thức được đào tạo từ hệ thống các trường học trên, có người trở thành tay sai, phục vụ cho chính quyền thực dân, nhưng cũng có không ít trí thức có tinh thần yêu nước, đứng về phía nhân dân chống thực dân xâm lược. Điều này trái với chủ ý của người Pháp khi đầu tư phát triển giáo dục ở vùng đất Nam Kỳ cũng như trên cả nước ta sau này. ít ỏi trí thức hội tụ đủ các yếu tố này – đã được người Pháp mời hợp tác. Ông được bổ nhiệm công việc ở Soái phủ Nam Kỳ, vừa dạy học ở trường Thông ngôn, vừa bắt đầu sự nghiệp biên khảo, dịch thuật. Trương Vĩnh Ký đã phiên âm và cho xuất bản hàng loạt các tác phẩm văn học Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ (sử dụng mẫu tự La-tinh). Cuốn sách Quốc ngữ đầu tiên được xuất bản vào năm 1866 là một sưu tập những truyện dân gian mà ông gọi là Chuyện đời xưa. Trong lời tựa Ý sách cho Chuyện đời xưa, ông viết: “Góp nhóp trộn trạo chuyện kia chuyện nọ, in ra để cho con nít tập đọc chữ Quốc ngữ” [7; tr 315]. Chữ Quốc ngữ dù ra đời từ trước, vốn chưa được phổ biến rộng rãi đến đây bắt đầu thâm nhập và được truyền bá mạnh mẽ vào đời sống xã hội. Với mong muốn chữ Quốc ngữ trở thành chữ viết riêng của dân tộc, Trương Vĩnh Ký đã dày công biên soạn sách giáo khoa phục vụ cho việc dạy chữ Quốc ngữ. Tiêu biểu là các tài liệu được ông viết vào năm 1875 như: Bài học thực hành tiếng An Nam, Sơ học vấn tân, Bài giảng về địa dư Nam Kỳ, Bài giảng về lịch sử An Nam,... Ở phần mở đầu của cuốn sách Vần Quốc ngữ (Syllabaire) trong bộ Sơ học quy chánh (Manuel des escoles primaires), xuất bản năm 1876, Trương Vĩnh Ký khẳng định: “Chữ quốc ngữ, phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế, vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện” [2; tr 41]. Sự kì vọng và ước đoán này của Trương Vĩnh Ký đã được các sĩ phu cấp tiến và một số trí thức tân học thực hiện để canh tân đất nước trong các phong trào Đông Du, Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa thục đầu thế kỉ XX. Nguyễn Văn Trấn trong P.J.B. Trương 52 Vĩnh Ký (1837-1898), đã đánh giá về cuốn Vần Quốc ngữ: “Làm ra cuốn Vần Quốc ngữ, Trương Vĩnh Ký đã viết sách dạy học trò, trực tiếp gây ảnh hưởng rất lớn đến nhiều nhà giáo dục học, môn đệ của mình. Họ đã theo kiểu cách của Pestrus Ký mà ra sức viết, viết để giáo dục thiếu nhi, nhi đồng bằng lời nói có vần, câu ngắn, cho trẻ em dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ” [10; tr 217]. Vốn là người thông thạo Nho học, sớm tiếp thu văn minh phương Tây, biết nhiều ngôn ngữ, Trương Vĩnh Ký còn dịch các sách chữ Hán như Đại học, Trung dung, Tam tự kinh; phiên âm, phiên dịch ra chữ Quốc ngữ những tác phẩm Hán – Nôm nổi tiếng như Kim Vân Kiều truyện (1875), Gia huấn ca (1882), Thơ dạy làm dâu (1882), Thơ mẹ dạy con (1882), Đại Nam quốc sử diễn ca (1885), Lục súc tranh công (1887), Lục Vân Tiên (1889), Có thể thấy, Trương Vĩnh Ký là người vừa nặng lòng với chữ Quốc ngữ, vừa nặng tình với quê hương đất nước và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trương Vĩnh Ký cũng là người đầu tiên sưu tầm và phiên âm ra chữ Quốc ngữ những sáng tác thơ văn yêu nước chống Pháp như: Hịch Quản Định kêu gọi đánh Tây của Trương Định (1882), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu (1887), Bài hịch kêu gọi nhân dân Nam Kỳ chống Pháp của Nguyễn Tri Phương, bài thơ Ai khiến thằng Tây tới vậy cà? của Bùi Hữu Nghĩa, Đặc biệt, là người luôn có ý thức giữ gìn sự trong sáng và phong phú của ngôn ngữ dân tộc, Trương Vĩnh Ký đã chủ xướng cách viết chữ Quốc ngữ theo lời ăn tiếng nói thông thường, mà theo ông là “viết theo lối dùng tiếng nói Annam ròng”, “có nhiều câu thường dùng lắm” và là “lối nói của người Việt bình dân có văn hóa”. Thông qua những trước tác, biên soạn, dịch thuật, sưu tầm, nghiên cứu với trên một trăm đầu sách, Trương Vĩnh Ký đã có những đóng góp quan trọng trong việc phổ biến và phát triển chữ Quốc ngữ, một hoạt động có ảnh hưởng quyết định đến tiến trình phát triển văn hóa dân tộc mà thực tiễn lịch sử đã cho thấy. Những công trình sáng tác, dịch thuật, biên khảo của ông vào thời điểm đó - như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân trong Thế kỉ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký - là “tiếng nổ lớn mở đầu cho học thuật Quốc ngữ không ai thay thế ông được” [5; tr 30]. Trong chương trình giáo dục Pháp – Việt ban hành vào năm 1874, chữ Hán và chữ Quốc ngữ chỉ được dạy ở cấp một. Với tư cách là thành viên của Hội đồng thành phố Sài Gòn, Trương Vĩnh Ký đã góp phần đề xuất chính quyền thực dân thay đổi chương trình theo hướng tăng thời lượng và hàm lượng dạy chữ Quốc ngữ. Đến năm 1879, khi ban hành chương trình giáo dục mới, người Pháp đã tăng giờ học chữ Hán và chữ Quốc ngữ lên ở cả ba cấp học. Trong bài viết “Chữ Quốc ngữ trên đất Sài Gòn – Gia Định những thế kỉ XVII – XVIII – XIX” (trích trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh), các tác giả Trần Văn Giàu, Thanh Lãng và Hoàng Xuân Việt cho rằng A. De Rhode không phải là ông tổ duy nhất của chữ Quốc ngữ. Nguyễn Văn Trấn trong P.J.B. Trương Vĩnh Ký (1837-1898) cũng đánh giá về công lao và những đóng góp của Trương Vĩnh Ký trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ
Tài liệu liên quan