1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển đa dạng, không thuần nhất của thơ ca đương đại; sự
phức tạp, đa chiều trong quá trình tiếp nhận, đời sống phê bình (thơ) trong mấy
thập kỉ gần đây cũng không kém phần sôi động, phong phú. Trong bài viết này,
chúng tôi muốn đề cập đến một vài khuynh hướng phê bình thơ cơ bản, từ đó tham
chiếu vào sáng tác để hình dung rõ hơn con đường quanh co và không ít ghập ghềnh
của một thể loại văn chương trong tiến trình hội nhập.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một vài khuynh hướng phê bình thơ từ giữa thập kỉ 80 - Thế kỉ XX đến nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Science., 2010, Vol. 55, N◦. 5, pp. 14-22
MỘT VÀI KHUYNH HƯỚNG PHÊ BÌNH THƠ
TỪ GIỮA THẬP KỈ 80 - THẾ KỈ XX ĐẾN NAY
Đặng Thu Thuỷ
Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển đa dạng, không thuần nhất của thơ ca đương đại; sự
phức tạp, đa chiều trong quá trình tiếp nhận, đời sống phê bình (thơ) trong mấy
thập kỉ gần đây cũng không kém phần sôi động, phong phú. Trong bài viết này,
chúng tôi muốn đề cập đến một vài khuynh hướng phê bình thơ cơ bản, từ đó tham
chiếu vào sáng tác để hình dung rõ hơn con đường quanh co và không ít ghập ghềnh
của một thể loại văn chương trong tiến trình hội nhập.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Phác thảo tình hình phê bình thơ từ giữa thập kỉ 80 đến
nay
Thơ từ sau 1975 đến đầu những năm 1980 chủ yếu trượt theo quán tính của
nền thơ kháng chiến. Từ giữa những năm 1980, thơ mới bắt đầu có những chuyển
động rõ nét. Đại hội Đảng VI cùng không khí cởi mở của nó là một luồng sinh khí
mới thổi mạnh vào đời sống xã hội Việt Nam. Đây chính là một cơ hội, vận hội mới
cho sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực, trong đó có thơ và phê bình thơ.
Năm 1984-1985 đánh dấu sự ra đời của các tập thơ, bài thơ làm xôn xao thi
đàn: Hoa trên đá (Chế Lan Viên), Ánh trăng, Đánh thức tiềm lực (Nguyễn Duy),
Tự hát (Xuân Quỳnh), Người đàn bà ngồi đan (Ý Nhi). Những hiện tượng thơ này
tuy chưa gây được hiệu ứng mạnh mẽ song qua đó, các nhà phê bình đã cảm nhận
được một hướng tìm tòi mới với giá trị nhân bản: quan tâm đến những vấn đề cá
nhân riêng tư, những vấn đề nhân sinh thế sự; khao khát hạnh phúc đời thường;
sự phức tạp, bí ẩn của tâm hồn con người; tinh thần dũng cảm nhìn thẳng vào sự
thật...
Từ năm 1988, ý thức về sự đổi mới thơ dấy lên mạnh mẽ. Những cách tân thể
nghiệm không còn lẻ tẻ, rời rạc mà đã hình thành thành hệ thống. Trong hai năm
14
Một vài khuynh hướng phê bình thơ từ giữa thập kỉ 80 - thế kỉ XX...
1988, 1989, có nhiều tập thơ gây được sự chú ý đặc biệt của công chúng với những
luồng dư luận trái chiều: Lối nhỏ (Dư Thị Hoàn), Ngựa biển (Hoàng Hưng), 36 bài
tình (Lê Đạt- Dương Tường), Thơ tình Bùi Chí Vinh (Bùi Chí Vinh), Đêm mặt trời
mọc (Nguyễn Quốc Chánh), Bến lạ (Đặng Đình Hưng)... Từ năm 1995, không khí
phê bình có vẻ bớt phần sóng gió. Các nhà thơ vẫn kiên trì thử nghiệm: Những người
đàn bà gánh nước sông (Nguyễn Quang Thiều), Người đi chăn sóng biển (Văn Cầm
Hải), 99 tình khúc (Hoàng Cầm), Ngó lời thơ Haikâu (Lê Đạt), Người hái phù dung
(Hoàng Phủ Ngọc Tường), Mùa sạch (Trần Dần), Thơ tự do (Nhiều tác giả), Giọng
nói mơ hồ (Nguyễn Hữu Hồng Minh), Khí hậu đồ vật (Nguyễn Quốc Chánh). . .
Tình hình sôi động trở lại vào đầu năm 2001 với hiện tượng Vi Thuỳ Linh.
Linh chính là người khơi mào cho làn sóng thơ trẻ trong những năm gần đây. Giới
làm thơ trẻ đã làm cho đời sống phê bình trở nên đầy sinh khí.
Những năm gần đây, sự cách tân ào ạt đến chóng mặt của các cây bút trẻ
đã khiến không ít người lạc quan, tin tưởng và hy vọng; và cũng nhiều người tỏ ra
lo ngại, thậm chí ngờ vực. Những cuộc tranh luận về thơ trẻ từ 2001 đến nay là
những cuộc tranh luận nảy lửa chưa có hồi kết thúc. Bên cạnh Vi Thùy Linh là
Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lý Đợi, Bùi Chát, Phan Bá Thọ, Lynh
Bacardi, Thanh Xuân, Phương Lan, Khương Hà Bùi, Nguyệt Phạm, Nguyễn Thế
Hoàng Linh, Ly Hoàng Ly. . . Những gương mặt này có thể coi là đại diện cho một
thế hệ không còn bị ám ảnh nặng nề với quá khứ, quyết tâm theo đuổi khát vọng đổi
mới thơ ca, mang đến cho thơ một diện mạo khác. Tác phẩm của họ đã trở thành
tâm điểm của những cuộc xung đột giữa các phe phái: phái già và phái trẻ, bảo thủ
và cấp tiến, phái kiên quyết trung thành với lối thơ truyền thống và phái quyết tâm
đối thoại với truyền thống, thậm chí phản lại truyền thống. Sôi sục, nóng bỏng hơn
cả là những cuộc tranh luận xoay quanh sáng tác của hai nhóm: Mở miệng và Ngựa
trời ở miền Nam. Tỏ ra thấu hiểu, đồng cảm và cổ vũ với họ hơn cả là các cây bút
phê bình cấp tiến, tương đối thấm nhuần các lý thuyết phê bình hiện đại phương
Tây: Inrasara, Như Huy... (phần nhiều trong số họ ở hải ngoại).
Sát cánh cùng lớp trẻ là những gương mặt đàn anh, tuy cũng từng nặng lòng
với truyền thống song cũng vẫn không nguôi quên khao khát canh tân thơ: Mai
Văn Phấn, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Đặng Huy Giang, Trần Quang
Quý, Nguyễn Bình Phương, Trần Tiến Dũng, Trần Anh Thái, Inrasara... Một vài
nhà phê bình cũng đã có sự quan tâm thích đáng đến họ, ghi nhận tinh thần cách
tân của họ: Inrasara, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Trọng Tạo...
Phê bình thơ từ giữa thập kỉ 80 tới nay đã được tiến hành dưới nhiều cấp độ:
một tác giả, một nhóm tác giả, một vấn đề thời sự văn học, một hiện tượng mới
nổi... Nhìn chung, được quan tâm, tranh luận nhiều hơn cả là các vấn đề: truyền
thống và hiện đại, thơ và tính dân tộc, chữ và nghĩa, thơ và sex.
Trong vài năm gần đây, phê bình đã có cái nhìn cởi mở, quán xuyến và cập
15
Đặng Thu Thủy
nhật hơn với thực tế sáng tác. Dưới ống ngắm của các nhà phê bình, thơ đương đại
được nhìn nhận một cách điềm tĩnh, khoa học, bớt màu sắc cảm tính; được đánh
giá khách quan, toàn diện hơn do được quan tâm đến ở cả bề nổi và bề chìm, cả
phần chính lưu và ngoại biên, cả những đóng góp và hạn chế.
2.2. Một số khuynh hướng phê bình cơ bản
Thực tế đã tồn tại rất nhiều các kiểu phê bình với nhiều cách định danh khác
nhau tùy theo từng quan niệm, tiêu chí phân loại: phê bình hàn lâm, phê bình điểm
sách, phê bình báo chí, phê bình thông tấn, phê bình lí luận, phê bình thực hành,
phê bình truyền thông, phê bình cảm tính, phê bình lí thuyết, phê bình học thuật,
phê bình nghiệp dư, phê bình bắt sâu, phê bình thưởng hoa, phê bình bốc thơm,
phê bình tiếp thị, phê bình dao búa, phê bình tô tượng, phê bình quét vôi kẻ biển,
phê bình hoàn thành nhiệm vụ...
Tuy nhiên, mọi sự phân loại chỉ là tương đối. Nhiều khi, ranh giới giữa các
kiểu phê bình cũng rất mong manh. Một nhà phê bình có thể có lúc viết theo kiểu
phê bình này, có lúc viết theo kiểu phê bình khác. Dựa trên một số tiêu chí như:
bản chất đặc thù, phương pháp phê bình, phương thức tồn tại, công bố, chức năng,
đội ngũ tác giả, độc giả,... tạm thời chúng tôi nhận thấy có hai bộ phận phê bình
cơ bản sau:
2.2.1. Phê bình hàn lâm
Phê bình hàn lâm là loại phê bình chuyên nghiệp, đề cao lí thuyết và phương
pháp khoa học, chú trọng đến sự tích lũy học thuật, truyền thống tri thức, tính quy
phạm học thuật, có những nguyên tắc khoa học nhất định.
Tốc độ cập nhật, biên độ hoạt động, biên độ phủ sóng của phê bình hàn lâm
đều ở mức chừng mực. Nó đến với người đọc chủ yếu qua con đường xuất bản truyền
thống: in thành sách, thành tập. Do có điều kiện (cũng là yêu cầu thiết yếu) chuyên
sâu hơn về học thuật, phê bình hàn lâm không thể được sản xuất theo kiểu fast
food cho độc giả. Vì thế, nó khó tiếp cận với độc giả phổ thông, khó tìm được tri
âm hơn so với phê bình truyền thông.
Sứ mạng của phê bình hàn lâm cũng nặng nề hơn. Đó không chỉ là việc phát
hiện và giới thiệu những tác giả, tác phẩm mới cũng như những vấn đề của đời sống
văn chương đương đại mà còn phải góp phần đề xuất, gợi hướng, điều chỉnh sáng
tác cũng như văn hóa đọc, giúp độc giả tiếp nhận tác phẩm ở những chiều kích mà
bằng cách đọc thông thường khó nhận ra. Nó gián tiếp tác động đến cái hiện tại ở
thì tương lai. Bằng con mắt xanh của một người “có nghề”, nhà phê bình không chỉ
phát biểu chủ kiến của mình trước một đối tượng cụ thể trong một trường hợp cụ
thể mà còn cung cấp cho người đọc một phương pháp, mở ra một đường đi mới để
họ đến với những tác giả, tác phẩm khác nữa.
16
Một vài khuynh hướng phê bình thơ từ giữa thập kỉ 80 - thế kỉ XX...
Bộ phận phê bình này có nhiều khuynh hướng khác nhau: phê bình thi pháp
học, phê bình phân tâm học, phê bình văn hoá học...
Thi pháp học là phương pháp nghiên cứu văn chương có từ rất lâu đời. Trong
thời hiện đại, nó cũng đã đạt được nhiều thành tựu. Tuy vậy, thi pháp học không
được cập nhật ở Việt Nam. Với chuyên luận Thi pháp thơ Tố Hữu, Trần Đình Sử
đã là người đi tiên phong trong việc áp dụng lí thuyết về thi pháp học hiện đại
vào nghiên cứu văn học Việt Nam. Nhà nghiên cứu đã khái quát hóa lí thuyết này
thành các công thức, mô hình và phân tích, chứng minh một cách thuyết phục qua
một trường hợp cụ thể là thơ Tố Hữu, từ đó mở ra một hướng nghiên cứu mới cho
những người kế tiếp. “Thực ra, khi mang trên mình những y phục có phần “tối tân”,
thi pháp học đã khiến không ít người, vốn quen với lối phê bình bình tán, hoặc ngủ
quên trong tư duy giáo điều phải nghi ngại. Người ta e rằng thi pháp học sẽ “công
nghệ hóa văn chương”. Song, rút cục, những lo lắng có phần... thái quá kia cũng
bị đẩy lùi. Bởi lẽ, hiệu quả nghiên cứu mà thi pháp học đem tới là quá hiển nhiên
[1;322]. Việc vận dụng các phạm trù thi pháp hiện đại: quan niệm nghệ thuật về
con người, không gian, thời gian nghệ thuật, các hình thức nghệ thuật biểu hiện để
xem xét thế giới nghệ thuật của nhà thơ đã có hiệu quả không nhỏ trong việc phê
bình những tác phẩm thơ đương đại.
Chu Văn Sơn là một trong những nhà phê bình đã tiếp thu rất linh hoạt và
sáng tạo lí thuyết về thi pháp. Anh được biết đến không chỉ như một chuyên gia về
thơ mới (rất thành công với Ba đỉnh cao thơ Mới khi anh đi tìm hiểu thế giới nghệ
thuật của Xuân Diệu, Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử) mà còn là một nhà phê bình
có nhiều quan tâm đến thơ đương đại. Với độ nhạy cảm tài hoa nghệ sĩ, Chu Văn
Sơn luôn phát hiện ra được “mắt thơ” ở mỗi nhà thơ, coi nó như một cánh cửa rộng
mở để tìm hiểu thế giới nghệ thuật của họ. Với những bài viết: Xuân Quỳnh, cánh
chuồn trong giông bão; Lời nguyện cho cõi yên hàn; Nguyễn Duy, thi sĩ thảo dân,
Trường hợp Thanh Thảo; Hoàng Cầm, gã phù du kinh Bắc...; Chu Văn Sơn đã bắt
quyết được thần thái, hồn vía của mỗi bút thơ; dựng nên được thế giới nghệ thuật
đặc sắc, không trộn lẫn của họ. Phê bình của Chu Văn Sơn vừa lôi cuốn bởi chất
văn bay bổng mượt mà (nhiều khi điệu đà); vừa thuyết phục vì lí lẽ xác đáng, có
tính khoa học; chất cảm đã hòa vào chất nghĩ, thật nhuần nhuyễn, uyển chuyển.
Nhờ có những bài viết của anh, cái quen thuộc bỗng dưng được lạ hóa, cái cảm thấy
bỗng nhiên được nhận ra.
Thi pháp học đã đi vào phê bình, nghiên cứu, vào nhà trường, vào các đề tài
khoa học... Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Lưu Quang Vũ, Trần Đăng Khoa
thời niên thiếu, Trần Mạnh Hảo, Lâm Thị Mĩ Dạ, Đoàn Thị Lam Luyến, Nguyễn
Kim Huy, Võ Văn Hoa, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Cầm, Inrasara... đã được khám
phá dưới góc độ thi pháp.
Ra đời muộn hơn thi pháp học, phê bình phân tâm là một trường phái khá
17
Đặng Thu Thủy
thịnh hành ở phương Tây vào nửa đầu thế kỉ XX. Không phải đến bây giờ, bạn
đọc Việt Nam mới biết đến phân tâm học. Tuy được giới thiệu vào Việt Nam từ
những năm 30- 40 của thế kỉ song suốt một thời gian dài, nó bị xa lánh, ghẻ lạnh,
kì thị. Kể từ Trương Tửu, Nguyễn Văn Hanh, Đàm Quang Thiện..., phải đến Đỗ
Lai Thúy, phân tâm học mới phát huy đắc dụng hiệu quả của nó trong nghiên cứu,
phê bình văn học. Nhiều phát hiện mới mẻ, thú vị đã được mở ra khi Đỗ Lai Thúy
dùng phân tâm học để soi chiếu, lí giải các hiện tượng thơ ca quá khứ và cả hiện
tại: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Bà huyện Thanh Quan, rồi Xuân Diệu,
Hoàng Cầm, Chế Lan Viên. “Không còn áp dụng phân tâm một cách cứng nhắc
như Trương Tửu, đơn giản kiểu sơ đồ “dồn nén- ẩn ức- thăng hoa” như Nguyễn Văn
Hanh, bắt buộc phải rõ tiểu sử tác giả như Nguyễn Văn Trung, bắt mạch các bệnh
nhiễu tâm như Thanh Lãng... Đỗ Lai Thúy thao tác ngay với văn bản, tìm kiếm
những kí hiệu mang bản chất phân tâm học của nó. Hướng vào bút pháp của nhà
văn, được sự gợi dẫn của J. Lacan (vô thức được cấu trúc như một ngôn ngữ) và bộ
công cụ thao tác ngôn ngữ từ các nhà hình thức luận Nga, trường phái ngôn ngữ
Praha và phê bình mới Anh- Mỹ, Đỗ Lai Thúy đã đi trực diện vào phương thức tồn
tại của văn học, tìm kiếm và giải mã cấu trúc vô thức trên/ trong/ qua văn bản, để
chỉ ra “bút pháp của ham muốn” của các nhà văn có dấu ấn phân tâm tiêu biểu...”
[2].
Nhà phê bình Inrasara lại gây ấn tượng với chủ trương phê bình lập biên bản.
Theo ông, tinh thần chung của kiểu phê bình này là “lập biên bản các sự biến văn
chương đang xảy ra trong thời đại tôi sống, những con người đang làm việc và sáng
tạo với tôi” [3]. Như vậy, nhà phê bình chẳng khác nào một người thư kí trung thành
của văn chương. Chấp nhận mọi hiện tượng văn chương xảy ra trong thời của mình,
anh ta là người ghi chép lại (không có nghĩa là không có cái nhìn của chủ thể quan
sát); dù đồng tình hay không, anh cũng cố gắng nhìn nhận như những gì chúng vốn
có (nhìn nhận qua hệ mĩ học của chính sáng tác đó chứ không từ lập trường hay
định kiến của người phê bình). Bởi thế, Inrasara quan tâm tới tất cả: từ những sáng
tác truyền thống đến hậu hiện đại, từ nhóm Ngựa trời đến Tân hình thức. Inrasara
đã lập biên bản gần 70 tác phẩm, tác giả ở thế hệ ông và sau ông một ít thuộc
nhiều hệ mĩ học khác nhau. Với loại phê bình này, Inrasara cố gắng bày nó ra như
là thế, rồi trên cơ sở hệ mĩ học của tác giả để đánh giá chính tác phẩm đó; nghĩa
là không từ hệ mĩ học này phê phán sáng tác thuộc hệ mĩ học khác nhằm đảm bảo
tính công bằng cho mọi trào lưu văn chương. Lập biên bản không phân biệt đối xử
và loại trừ. Ông chủ trương: “Phê bình của tôi không là phê bình bênh vực hoặc trù
dập, khen chê” nên ông luôn cố gắng đi tìm cái hay đồng thời ghi nhận sự bất cập
của mọi hiện tượng thơ hôm nay, dù chúng là sáng tác ngoài luồng hay chính thống,
in báo giấy hay báo mạng (Bởi thế, dù rất hào hứng với Ngựa trời, ông vẫn chỉ ra
“sự thiếu một suy tư nền tảng” của nhóm này; dù khẳng định cái mới của Vi Thùy
18
Một vài khuynh hướng phê bình thơ từ giữa thập kỉ 80 - thế kỉ XX...
Linh, ông vẫn cho rằng: đòi hỏi thơ Linh gánh vác trọng trách như “biểu tượng giải
phóng phụ nữ trong văn học” là một đòi hỏi quá tải). Điều này xuất phát từ quan
niệm: tồn tại văn chương không loại trừ mà bổ sung lẫn nhau. Thơ ca hôm nay cần
có môi trường lành mạnh để các giọng thơ, các trào lưu, hệ mĩ học khác nhau cùng
tồn tại và tranh đua, thúc đẩy nền thơ ca Việt Nam dấn tới.
Inrasara còn là một trong số ít nhà phê bình dám tiên phong dấn thân tìm
hiểu văn học hậu hiện đại nói chung và thơ hậu hiện đại nói riêng. Trong những bài
viết của mình, ông đã tập trung phân tích, lí giải những biểu hiện của tính chất hậu
hiện đại (về cảm thức hậu hiện đại, đặc biệt là những kĩ thuật sáng tác hậu hiện đại
trong sáng tác của những bút thơ tiêu biểu). Bên cạnh đó, ông cũng rất quan tâm
tới ảnh hưởng của các xu hướng, trào lưu thơ ca phương Tây khác tới thơ đương
đại Việt Nam: tân hình thức, nữ quyền luận...
Tuy không tuyên ngôn, không chủ trương một phương pháp phê bình nhất
định nào như một số đồng nghiệp khác nhưng trên thực tế, những bài phê bình của
Nguyễn Đăng Điệp đã cho thấy tính chất hàn lâm: coi trọng sự tồn tại của văn bản,
sự miêu tả, cắt nghĩa một cách kĩ lưỡng, thấu đáo, cái nhìn điềm tĩnh, cách viết
chừng mực, kín kẽ (tuy không kém phần sắc sảo). Nguyễn Đăng Điệp đã có những
phát hiện thú vị khi viết về Hoàng Cầm, Nguyễn Quang Thiều, Vi Thùy Linh, Đồng
Đức Bốn, Hữu Thỉnh..., sự theo dõi sát sao đời sống văn chương đương đại, cái nhìn
khái quát, quán xuyến trên diện rộng về những chuyển động của thơ đương đại,
thuyết phục được người đọc.
Ngoài ra, không thể không kể đến một số cây bút “có nghề” và cũng có những
quan tâm nhất định đến thơ đương đại: Phong Lê, Mã Giang Lân, Vũ Văn Sỹ, Ngô
Văn Giá, Phạm Xuân Nguyên, Lưu Khánh Thơ, Bích Thu...
2.2.2. Phê bình truyền thông
Trong những năm gần đây, phê bình truyền thông có vẻ đang ngày càng lấn
át phê bình hàn lâm bởi những đặc tính, thế mạnh của nó rất thích nghi với tình
trạng xã hội hiện thời. Tồn tại và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường,
khuynh hướng phê bình này đã hưng khởi rất nhanh cùng với sự phát triển như vũ
bão của các phương tiện truyền thông. Với kiểu phê bình này, phê bình đã được giải
phóng khỏi các môi trường mang tính hàn lâm như các giảng đường đại học, các
viện nghiên cứu. Nó lộ diện áp đảo ở những môi trường công cộng. Nơi dung dưỡng
nó là các tạp chí, các tờ báo viết và báo mạng, các phương tiện phát thanh truyền
hình... Đây là một xu hướng, một đặc trưng của thời hậu hiện đại: giải khu biệt
hóa, xóa bỏ mọi trung tâm, giải thiêng, thông tục hóa những gì cao nhã. Một số
người tâm đắc với quan niệm: phê bình văn học không phải là mảnh đất của riêng
ai, không có chuyện độc quyền. Phê bình văn học là của mọi người (Phê bình văn
học của tôi - Nguyễn Thanh Sơn).
19
Đặng Thu Thủy
Phê bình truyền thông có những ưu thế không thể phủ nhận: tính thời sự,
cập nhật, khả năng tái hiện đời sống văn học đương thời. Nó là tiếng nói tức thì,
là những phản ứng nhanh trước những sáng tác mới ra lò. Vì thế, nó có thể mách
bảo cho công chúng tiếp cận nhanh với sáng tác. Phê bình truyền thông về cơ bản
không đặt ra những yêu cầu khắt khe về học thuật, về sự cẩn trọng mang tính khoa
học nên khá bình dân, “thân thiện” với người đọc và cả người sáng tác; độ phủ sóng
cao.
Mặt khác, là sản phẩm của thời đại tiêu dùng, nhiều khi nó cũng không khác
nào món mì ăn liền (dễ chế biến, dễ ăn, có thể lót dạ lúc đói lòng nhưng người ta
dùng xong cũng có thể quên ngay). Bắt mạch cho phê bình hôm nay, Inrasara đã kê
ra khá nhiều căn bệnh trầm kha của nó, trong đó có bệnh phê bình chung chung,
vô thưởng vô phạt, phê bình độn giai thoại (có lẽ đây là căn bệnh phổ biến của phê
bình truyền thông).
Phương pháp của phê bình truyền thông phần nhiều dựa vào trực giác, thiên
về cảm nhận (chứ không đi vào lí giải thuyết phục một cách khoa học) và nhiệt tình
khẳng định, ngợi ca. Bài phê bình vì thế chủ yếu dừng lại ở việc giới thiệu, điểm
sách. Do thiên về cảm nhận chủ quan, ít tính học thuật nên thực tế có khá nhiều
các quan điểm khác nhau về cùng một đối tượng sáng tác, tùy theo kinh nghiệm, sự
từng trải, sự nhạy cảm với cái mới, trực giác nghệ thuật tinh nhạy của mỗi người.
Bình và tán là những thao tác cơ bản của phê bình truyền thông. Tuyên ngôn: “thơ
hay chỉ có thể cảm chứ không nên dùng sự hiểu mà phân tích”, việc trích dẫn tràn
lan, kèm theo những lời lẽ có cánh với ngôn từ rất hoa mĩ, sự phóng khoáng, thậm
chí phóng đại; sự nông cạn, xào xáo không phải là hiếm thấy trong những bài phê
bình mang tính truyền thông. Nhiều người cũng nhận ra rằng: các nhà phê bình
phần đông vẫn chịu áp lực bởi sự cả nể bạn bè nhờ vả, bởi yêu cầu đặt hàng, quảng
cáo của các công ty, nhà in sách... nên khen chê thiếu công tâm, đánh đồng giá trị,
làm nhiễu loạn khả năng định hướng đọc của những độc giả thiếu bản lĩnh; ngược
lại, làm thất vọng, mất lòng tin ở những độc giả có tri thức, có chủ kiến.
Những cây bút phê bình truyền thông phần lớn là những người coi phê bình
như một hứng thú chứ không phải như một trách nhiệm, một công việc bắt buộc
phải làm. Phần đông trong số họ là những nhà văn, nhà thơ, nhà báo.
Tuy có những hạn chế tất yếu nhưng xu hướng phê bình này không thể thiếu
trong đời sống văn học hôm nay. Sự tồn tại và phát triển của nó là một tất yếu.
Cũng cần hiểu rằng, có nhiều tiêu chí để phân loại phê bình hàn lâm và phê bình
truyền thông (phương thức tồn tại, bản chất đặc thù, chức năng, đội ngũ tác giả,
độc giả...), không nên có thiên kiến cho rằng: phê bình hàn lâm đồng nhất với chất
lượng học thuật cao, khả năng tin cậy lớn; còn phê bình truyền thông thì ngược lại.
Trên thực tế, vẫn có những cây bút phê bình truyền thông có thiên kiến sắc sảo, có
những đóng góp có ý nghĩa cho sự tồn tại và phát triển của thơ đương đại. Phần
20
Một vài khuynh hướng phê bình thơ từ giữa thập kỉ 80 - thế kỉ XX...
đông trong số họ là nghệ sĩ, những người trực tiếp sáng tác, trực tiếp làm thơ. Họ
viết phê bình chủ yếu dựa vào nhãn quan nghệ sĩ, trực cảm nghệ sĩ, kinh nghiệm
sáng tác (có người gọi là phê bình nghệ sĩ): Dương Tường, Hoàng Hưng, Nguyễn
Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Trịnh Thanh Sơn, Bùi Công Thuấ