Mưa ở đồng bằng sông Cửu Long

Ôi, những câu ca dao ru em từngàn xưa của người dân quê đến nay vẫn còn. Những lời hát đơn giản, mộc mạc nhưvậy vẫn còn in đậm trong ký ức của mỗi tâm hồn người dân Việt Nam dù nhân loại đã có những phát minh sáng tạo khoa học kỹthuật vượt bực. Thếnhưng, bước vào thiên niên kỷthứba, thông điệp của Tổchức Liên hiệp quốc vẫn liên tục cảnh báo nguy cơthiếu nước ngọt cho nhân loại trên một trái đất với 3/4 diện tích bao quanh bềmặt là phủ đầy nước Hầu hết các quốc gia trên thếgiới, hiện tượng mưa rơi ảnh hưởng trong thi ca, phong tục, tập quán, vẫn nhiều hơn với các hoạt động thời tiết khác. Thếcòn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), vựa lúa lớn nhất của Việt Nam thì sao?

pdf11 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2012 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mưa ở đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 MƯA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Lê Anh Tuấn Đại học Cần Thơ --- oOo --- 1. Khởi dẫn Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống, Lấy ruộng tôi cày, Lấy đầy bát cơm, Lấy rơm đun bếp, Lấy nếp nấu xôi, … Ôi, những câu ca dao ru em từ ngàn xưa của người dân quê đến nay vẫn còn. Những lời hát đơn giản, mộc mạc như vậy vẫn còn in đậm trong ký ức của mỗi tâm hồn người dân Việt Nam dù nhân loại đã có những phát minh sáng tạo khoa học kỹ thuật vượt bực. Thế nhưng, bước vào thiên niên kỷ thứ ba, thông điệp của Tổ chức Liên hiệp quốc vẫn liên tục cảnh báo nguy cơ thiếu nước ngọt cho nhân loại trên một trái đất với 3/4 diện tích bao quanh bề mặt là phủ đầy nước … Hầu hết các quốc gia trên thế giới, hiện tượng mưa rơi ảnh hưởng trong thi ca, phong tục, tập quán, … vẫn nhiều hơn với các hoạt động thời tiết khác. Thế còn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL), vựa lúa lớn nhất của Việt Nam thì sao? Mưa và việc sử dụng nước mưa ở ĐBSCL không có gì là mới lạ cả. Người cư dân đầu tiên đến khai khẩn vùng đất này từ thế kỷ thứ 17, 18 đã biết cách hứng nước mưa để ăn uống. Các ngôi nhà cổ ở ĐBSCL đều có dấu tích của bể trữ nước mưa. Hình ảnh chiếc lu, cái khạp nước để bên hiên nhà, cạnh gốc cau hoặc trước cửa nhà với cái gáo gừa là hình ảnh rất quen thuộc ở vùng quê Việt Nam. Người miền Nam Việt Nam ngày xưa còn có thói quen để một lu nước nhỏ trước cửa nhà, cho khách bộ hành phương xa lỡ bước, đến tự nhiên múc uống mà không cần xin phép gia chủ. Đó là một tập quán đẹp của dân tộc mang tính hiếu khách, hào hiệp và dễ dãi của người dân nông thôn miền Nam Việt Nam. Bài này mời các bạn cùng tôi điểm qua một số dữ liệu và nhận xét đề xuất. 2. Một số liệu thống kê ĐBSCL là vùng đất phía Tây Nam của Việt Nam và nơi chảy cuối cùng của sông Mekong đổ ra biển. Đồng bằng rộng 36.000 km2, tức trên 4% diện tích toàn lưu vực sông Mekong, chiều dài dòng Mekong chảy qua Việt Nam là 225 km (hơn 5% tổng chiều dài sông Mekong). Ở Việt Nam, sông Mekong được gọi tên là sông Cửu Long do các nhánh sông khi chảy ra biển tựa như 9 con rồng trườn xuống Biển Đông. Đồng bằng có hai mặt giáp biển dài 600 km, dân cư hiện khoảng 17 triệu người (tương đương 24% tổng dân số). Diện tích canh tác nông nghiệp xấp xỉ 2 triệu ha. ĐBSCL nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. một năm có hai mùa mưa và mùa nắng phân biệt. Mùa mưa kéo dài khoảng 5 tháng, tương ứng với chủ yếu thời kỳ gió mùa Tây Nam, mưa lớn xảy ra khi các luồng áp thấp nhiệt đới xuất hiện trên lục địa Châu Á, thường bắt đầu vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 và chấm dứt vào cuối tháng 11 hằng năm. Bảy tháng còn lại trong năm là mùa khô, thời kỳ này gió mùa Đông Bắc lại chiếm ưu thế do sự hiện diện của các trung tâm áp cao từ vùng 2 Siberi - Mông Cổ di chuyển xuống. Lượng mưa trong mùa khô rất ít, chỉ chiếm khoảng 5 - 10% so với tổng lượng mưa trong cả năm (xem bảng 1).  Bảng 1: So sánh lượng mưa trung bình tháng (mm) một số vùng ĐBSCL (số liệu này chỉ mang tính tham thảo tạm thời, chưa qui về chuỗi nhiều năm) Vùng/Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Σ Cần Thơ Sóc Trăng Cà Mau Rạch Giá Tân Châu Châu Đốc Long Xuyên Phú Quốc 17 9 18 11 9 16 12 28 3 2 9 7 15 2 2 24 12 14 32 36 55 44 13 55 45 64 97 99 103 108 97 138 166 224 290 220 166 169 211 306 182 247 306 250 154 136 162 396 226 248 330 304 162 150 194 438 214 264 343 310 112 147 197 543 278 266 337 294 180 153 235 522 250 289 332 270 286 250 287 328 169 171 170 160 172 137 144 179 52 40 88 44 64 60 57 78 1604 1840 2360 2015 1478 1385 1611 3038 Lượng mưa trung bình ở ĐBSCL biến động trong khoảng 1.400 - 2.200 mm/năm. Tỉnh có lượng mưa cao nhất là Cà Mau (trên 2.200 mm/năm), tỉnh có lượng mưa thấp nhất là Đồng Tháp (xấp xỉ 1.400 mm/năm). Tuy nhiên, điểm có lượng mưa được ghi nhận thấp nhất là Gò Công (Tiền Giang) chỉ vào khoảng 1.200 mm/năm với trung bình có 100 - 110 mm/năm. Đảo Phú Quốc (Kiên Giang) được ghi nhận như là nơi có lượng mưa cao nhất vùng đồng bằng, lên đến 3.145 mm/năm với tổng số ngày mưa ghi nhận là 140 ngày mưa/năm. Trong các tháng mùa mưa, số liệu từ các trạm đo mưa cho thấy có khoảng 13 - 21 ngày mưa/tháng. Trong mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3, số ngày có mưa trong tháng rất ít chỉ vào khoảng 0 - 6 ngày mưa. Theo dõi số liệu mưa nhiều năm ở khu vực ĐBSCL, ta thấy tại Kiên Giang thường bắt đầu có mưa sớm vào tháng 4, sớm hơn các tỉnh khác khoảng 15 - 20 ngày. Nếu so sánh với số liệu mưa ở các khu vực khác trong toàn quốc ở Việt Nam thì mưa ở ĐBSCL ít bị biến động. Liên kết giữa mưa và các yếu tố khí hậu khác ta cũng dễ thấy những quan hệ khá chặt chẽ, lượng mưa có tương quan thuận với nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt trời, lượng mây bao phủ và tương quan nghịch với lượng bốc hơi (xem bảng 2, 3, 4). Bảng 2: So sánh nhiệt độ trung bình tháng (°C) một số vùng ĐBSCL (số liệu này chỉ mang tính tham thảo tạm thời, chưa qui về chuỗi nhiều năm) Vùng/Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 TB Cần Thơ Sóc Trăng Cà Mau Rạch Giá Tân Châu Phú Quốc 26.3 25.2 24.9 25.5 26.0 25.5 27.0 26.0 25.4 26.3 26.6 26.3 28.1 27.2 27.6 27.5 27.4 27.3 28.8 28.4 27.6 28.5 28.3 28.1 27.7 27.9 27.4 28.4 28.2 28.1 27.2 27.2 27.1 28.2 27.9 27.8 27.7 27.0 27.0 27.7 27.0 27.3 27.5 27.0 26.8 27.5 27.7 27.1 27.1 26.9 26.8 27.5 27.7 27.0 27.3 26.8 26.5 27.3 27.8 26.6 27.2 26.4 26.2 26.7 29.7 26.5 26.2 25.5 25.5 25.9 25.6 26.0 27.0 26.8 26.5 27.3 27.5 27.0 Bảng 3: So sánh bốc hơi trung bình tháng (mm) một số vùng ĐBSCL (số liệu này chỉ mang tính tham thảo tạm thời, chưa qui về chuỗi nhiều năm) Vùng/Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 TB Cần Thơ Sóc Trăng 90 118 118 134 140 158 144 144 102 96 84 84 81 90 81 87 72 72 74 59 72 66 81 90 1148 1198 3 Bảng 4: So sánh ẩm độ tương đối trung bình tháng (%) một số vùng ĐBSCL (số liệu này chỉ mang tính tham thảo tạm thời, chưa qui về chuỗi nhiều năm) Vùng/Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 TB Cần Thơ Rạch Giá Tân Châu Sóc Trăng 80 78 81 80 77 75 78 77 77 77 75 77 77 78 77 77 82 84 81 84 84 85 83 86 84 86 86 87 85 86 85 87 85 85 89 88 84 85 85 88 84 83 86 86 82 81 86 83 82 82 83 83 3. Một số nhận xét về mưa ở ĐBSCL Nếu so với các nước trên thế giới, lượng mưa ở ĐBSCL thuộc loại khá nhiều và thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp, đặc biệt cho cây lúa nước. Tuy nhiên đó chỉ nói về lượng, điều dễ thấy nhất là sự phân bố mưa ở ĐBSCL không đều, mùa mưa trùng với mùa lũ và mùa khô trùng với mùa kiệt của sông Cửu Long. Điều đáng chú ý là ở ĐBSCL có 2 đỉnh mưa: đỉnh thứ nhất, vào các tháng 6 - 7 và đỉnh thứ hai vào các tháng 9 - 10. Những trận mưa đầu mùa thường thường sự chảy tràn lớn xuống các dòng sông rạch và kênh mương cuốn theo rác rến, các độc chất trong đất gây ô nhiễm. Sông rạch bị ô nhiễm lớn nhất vào tháng 5 hằng năm, đặc biệt ở các đô thị lớn và các khu công nghiệp tập trung. Ở các vùng đất có sự hiện diện của phèn tiềm tàng (lớp pyrite), do mùa khô kéo dài, đất nứt nẻ, mực nước ngầm hạ thấp tạo điều kiện thuận lợi cho phèn tiềm tàng trở thành phèn hoạt động (dạng jarosite). Nước mưa đầu mưa hòa tan phèn làm độ pH của nước kinh rạch hạ thấp. Phải mất một vài tuần lễ của đầu tháng 5, người nông dân mới có thể chuẩn bị đất, cày bừa và gieo sạ được. Đầu mùa mưa, vẫn có năm, hạn đầu vụ xuất hiện là chết một số diện tích lúa mới gieo sạ. Giữa hai đỉnh mưa, có một thời kỳ khô hạn ngắn, trong dân gian gọi là Hạn Bà Chằn, kéo dài khoảng 10 ngày từ cuối tháng 7 đến đầu tháng 8, nguyên nhân là do ảnh hưởng các luồng gió xoáy nghịch trên cao. Hạn Bà Chằn, nếu kéo dài, có thể gây giảm năng suất lúa vụ Hè Thu bởi vì thời gian này là kỳ cây lúa trổ đòng và có nhu cầu nước cao nhất. Vào cuối mùa mưa là thời kỳ lũ lụt tràn về hằng năm, mưa lớn vào tháng 9, tháng 10 gây khó khăn cho việc gặt hái, phơi lúa và tồn trữ nông sản. Một số phân tích ban đầu về chất lượng nước mưa tại một số vùng ở Đồng bằng cho thấy, nước mưa vẫn còn sự tinh khiết, ít nhiễm bụi khói trừ một số trận mưa đầu mùa xảy ra ở các đô thị lớn như Cần Thơ, Mỹ Tho nhưng lượng khói bụi trong nước mưa cũng chưa phải lớn lắm. Lượng acid trong nước mưa không đáng kể. Trong nước mưa, có sự ghi nhận hiện diện của thành phần đạm hòa tan, đặc biệt là các trận mưa giông, có sấm chớp (do hiện tượng đối lưu vào mùa hè). Sự hiện diện các vi khuẩn trong nước mưa, nếu có, là do các vật dụng thu hứng không được sạch sẽ. Nhìn chung, chất lượng nước mưa ở khu vực được đánh giá là tốt. Các khu vực biên giới các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, các vùng dọc ven biển của tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang cũng như các hải đảo ở khu vực biển Tây như Phú Quốc, nước mưa là nguồn nước ngọt chủ yếu cho ăn uống, sau đó mới đến lượng nước ngầm và nước mặt. Ở một mặt nào đó, người ta có đánh giá sự khác biệt giàu nghèo của người dân vùng nông thôn qua khả năng trữ nước mưa trong gia đình của họ. Gia đình càng khá giả, lượng nước mưa trữ càng nhiều và ngược lại. Ở các gia đình trung nông trở lên, sự hiện diện một bể chứa nước hoặc một hàng lu sắp hàng dài bên hông nhà là hình ảnh khá tiêu biểu. Việc trữ nước mưa để sử dụng trong ăn uống không hẳn là một việc dễ dàng trên bình diện toàn xã hội, đặc biệt là vùng nông thôn, nơi mà mức sống của người dân còn thấp 4 và trình độ dân trí nhiều hạn chế. Sự thiếu nước ngọt trầm trọng vào mùa khô là một vấn đề không đơn giản để giải quyết nhanh chóng. Ở các vùng mặn, có một nhóm người hành nghề "đổi nước" (người dân tránh tiếng "bán nước"). Giá một can 20 lít ngọt chừng 200 - 800 đồng, có lúc lên đến 1.000 đồng/can 20lít, tùy thuộc việc phải di chuyển gần hoặc xa. Người dân phải dùng nước một cách dè sẻn. Cuối mùa khô cũng là là mùa dịch bệnh với các chứng bệnh "điển hình" như tiêu chảy, thương hàn, đau mắt hột, phụ khoa, ghẻ lở,… Các bệnh này chiếm từ 40 - 60% các trường hợp đến trạm xá y tế để nhập bệnh, điều trị. 4. Một số giải pháp đề nghị cho việc sử dụng nước mưa ở ĐBSCL Hầu hết, các trạm đo mưa ở ĐBSCL đã có chuỗi số liệu dài trên 12 năm liên tục. Các trung tâm dân cư lớn, chuỗi số liệu ghi nhận ở các trạm đo mưa dài đến vài chục năm. Trong tính toán thiết kế các công trình thủy nông, việc xác định lượng mưa cần thiết cho tưới là bài toán phải làm trước tiên. Tần suất thiết kế được chọn là 75% cho các chuỗi số liệu mưa năm và thời vụ. Hiện có một số phần mềm máy tính đã được soạn thảo để giúp cho việc tính toán thủy văn, như LP3.exe của L.A. Tuấn, CROPWAT của Tổ chức Lương Nông Thế giới (FAO), TS2000 của Trung tâm Công nghệ Phần mềm Thủy lợi, … Khi lượng mưa tự nhiện không thỏa yêu cầu nước cho cây trồng thì mới nghĩ đến biện pháp công trình, như lấy nước từ sông rạch qua hệ thống trạm bơm, cống và kênh mương. Việc sử dụng nước ngầm được khuyến cáo là không nên do thiếu hiệu quả, chi phí lớn và một số vấn đề về ảnh hưởng môi trường. Nước ngầm có thể sử dụng cho ăn uống nếu được xử lý tốt. Vấn đề này sẽ được thảo luận ở một bài viết khác. Nước mưa là nguồn nước lý tưởng cho việc sử dụng ăn uống. Ưu điểm của nước mưa là dồi dào, tương đối sạch, rẻ tiền và đều khắp khu vực. Nhược điểm của việc thu trữ nước mưa là thiếu hụt lớn vào mùa khô, đầu mùa mưa nước thường nhiễm bẩn do chảy trên mái nhà, máng xối đầy bụi, phân chim, chuột bọ, … Nơi lấy nước mưa dễ biết nhất là từ mái nhà. Mái nhà ở nông thôn thường lợp bằng tole tráng kẽm (thu nước mưa tốt nhất), sau đó mới đến ngói và cuối cùng là fibro ximăng, mái lá, … Một số lưu ý khi tồn trữ và sử dụng nước mưa: • Không nên dùng sơn các loại, kể cả sơn chống rỉ sét, để sơn lên mái nhà nếu muốn thu nước mưa. Trong sơn có sự hiện diện của chì gây ngộ độc thần kinh cho con người. Sơn còn gây mùi hôi khó chịu cho nước. • Không nên dùng tấm lợp fibro xi-măng để hứng nước mưa. Đây là loại vật liệu xây dựng có trộn thêm amiăng vào xi-măng để tăng cường độ cứng, nhưng amiăng là những sợi nhỏ có thể bị bào mòn theo nước mưa. Sợi amiăng rất có hại cho cơ thể con người. • Không nên lấy nước vào đầu mùa mưa, phải đợi sau 2 -3 trận mưa lớn để rửa sạch máy nhà, máng xối mới bắt đầu hứng nước. • Nếu có điều kiện nên kỳ rửa mái nhà (mái lợp tole hay ngói). Cũng nên chú ý không nên leo lên mái nhà lúc có mưa giông, sấm chớp. Chỉ leo lên khi thấy các trận mưa lâm râm nhỏ và không có sấm chớp. • Khi hứng nước mưa, phải có màng lọc (màng lọc có thể dùng vải mùng, lưới muỗi để làm) để hạn chế các bụi, cặn, cành cây, lá cây, lông chim, … theo mưa vào thùng chứa. • Vật chứa nước phải kỳ rửa cho sạch, phơi nắng để diệt vi khuẩn và rong rêu trước khi thu nước mưa. 5 • Phải che chắn, đậy kín các lu nước, thùng phuy, xô chậu, … để hạn chế muỗi để trứng và phát triển thành lăng quăng (bọ gậy). Muỗi là tác nhân gây bệnh sốt xuất huyết, sốt rét ở những vùng nông thôn. Các bể chứa nước lớn có thể thả một số cá bảy màu để ăn trứng muỗi, lăng quăng. • Dù nước mưa có sạch đến đâu cũng không nên uống trực tiếp mà cần phải đun sôi, để nguội trong các chai sạch, có nắp đậy để uống dần. Trường hợp gặp khó khăn về nhiên liệu, củi đốt, thì có thể đựng nước trong các chai trong suốt (thủy tinh, nhựa trong, …) đem phơi nắng liên tục ít nhất là 6 giờ để diệt vi khuẩn. Theo một số khảo sát riêng của tác giả, trung bình một người ở nông thôn ĐBSCL tiêu thụ khoảng 5 lít nước mỗi ngày. Nếu kể thêm có khách đến nhà, các dịp lễ tết, giỗ cưới (mỗi năm trung bình 1 gia đình nông thôn có ít nhất 2 - 3 đám giỗ tết, người dân miền Nam Việt Nam rất hiếu khách, cởi mở). Như vậy số lượng nước cần dùng cho 1 người là 6 - 8 lít/ngày. Tùy theo hoàn cảnh gia đình, ta có thể tính thể tích bể dự trữ cho các tháng mùa khô. Ví dụ một gia đình 5 người, lấy lượng nước tối đa cho 1 người là 8 lít thì lượng nước cần trữ cho 6 tháng mùa khô tối đa sẽ là: 8 lít/người.ngày x 5 người x 180 ngày = 7.200 lít = 7,2 m3 Với mức thất thoát (do rò rỉ, bốc hơi, …) khoảng 20 - 30%, thì dung tích chứa cần là: 7,2 m3 x 1,3 = 9,6 m3, làm tròn ≈10 m3 (tương đương 1 bể hình khối chữ nhật cao ngang 2 m, dài 3 m và cao 1,8 m). Hình 1: Các loại vật dụng trữ nước ở nông thôn Việt Nam Chi phí mua vật dụng tồn trữ cũng khá cao so với thu nhập của nông dân. Giá vào thời điểm 2000 - 2002, một cái lu nước 200 - 250 lít là 20.000 đồng - 50.000 đồng/cái tùy Bể xây Thùng Lu Bồn nước Xô Can 6 chất lượng. Xây một hồ xi-măng chứa nước có dung tích 5 - 7 m3 tốn chừng 400.000 đồng - 500.000 đồng/cái. Trên thị trường hiện nay, có rất nhiều thùng đựng nước bằng nhựa composite hoặc inox có dung tích từ 300 lít đến 2.500 lít, nhưng giá cả thì khá cao từ 700.000 đồng đến trên 5 triệu đồng/cái. Các kiểu xây dựng bể chứa rất nhiều, sau đây là một số cách đơn giản, có thể áp dụng cho các vùng nông thôn Việt nam. Mái nhà Van khóa ống hoặc co chữ T với ống mềm (khi xả bỏ nước mưa ra ngoài) Vòi tràn Bể trữ nước mưa Máng xối Bơm tay Nắp bể Chi tiết A Van Ống hút Mưa Ống nước từ máng xối Co Ống xả bỏ nước Lưới chắn Ống dẫn nướcxuống bể Chi tiết A Hình 2: Mẫu thu nước từ mái nhà xuống bể ngầm 7 • Hình 3: Chỉ dẫn các bước xây 1 cái lu có dung tích chứa khoảng 250 lít nước: (Theo Pickford, 1991 và Watt, 1978)                                   1. Cắt 2 miếng vải thô có kích thước 125 x 110 cm, vẽ các đường may theo kích thước như hình vẽ. May 2 miếng vảI cho dính vào nhau đề thành một cái bao vải. Lộn trái bao khi may xong. 2. Đặt bao vải lên một tấm đáy bằng xi-măng xây sẵn hình tròn có đường kính 60 cm, dày 1,5 cm. Đổ cát vào bao vải. Giữ đáy bao cát trùm trọn đều trên tấm đáy.  3. Khi bao đầy cát, cột miệng bao lại và tạo dáng cho lu bằng một cái bay gỗ, vỗ đều chung quanh bao. Phun nước cho ướt cát trong bao trước khi trát vữa. 4. Gắn một vành kim loại (sắt, tole kẽm) có đường kính 40 cm lên đầu bao cát để làm miệng lu. Trộn vữa xi măng theo tỉ lệ 1:2 (1 phần xi măng : 2 phần cát ), trộn khô (1 cái lu 250 lít cần 5 kg cát và 25 kg xi-măng P.300). Tô lớp vữa đầu tiên quanh bao cát với bề dày khoảng 0,5 cm. 8                      Làm thêm 1 cái nắp đậy (bằng tole tráng kẽm, có bọc lưới muỗi) cho cái lu. Khi bắt đầu sử dụng: Ngày thứ nhất: đổ nước không quá 1/2 lu. Ngày thứ hai: đổ nước không quá 3/4 lu. Ngày thứ ba: có thể đổ đầy lu. Cách này cũng có thể áp dụng để xây các loại lu có dung tích lớn hơn, chừng 500 lít hoặc 1.000 lít. Tuy nhiên, bà con nông dân nên tập làm các lu nhỏ trước rồi quen tay mới dần dần làm các loại lu lớn hơn. Loại lu này nên hạn chế di chuyển, tốt nhất là định đặt lu ở đâu, xây ở đó. Lu sử dụng một thờI gian có thể bị nứt, lúc đó có thể dùng vữa xi-măng, dầu chai hoặc nhựa đường để hàn trét chỗ nứt. Trước khi hàn trét, cần khéo léo, nhẹ tay đục theo vết nứt khoảng 0,5 cm trước khi trét (xem hình 4).   Hình 4: Đục trám vết nứt trên lu  5. Đợi lớp vữa thứ nhất hơi ráo nước, tiếp tục tô lớp thứ hai thêm 0,5 cm lên lớp thứ nhất. Kiểm tra độ dày đồng đều của lớp hồ vữa bằng 1 cây đinh hoặc 1 cọng thép. Gắn thêm một vành kim loại thứ hai có đường kính 47 cm bên ngoài vành thứ nhất lên miệng lu. Đổ vữa xi-măng giữa 2 vành kim loại để hình thành miệng lu.  6. Hai ngày sau, móc cát trong bao cát ra, lấy khỏI lu bao cát cà 2 vành kim loại. Chính sửa các khiếm khuyết của hình dáng cái lu. Trét kỹ nơi tiếp xúc giữa thân lu và đáy lu bằng 1 lớp xi- măng già. Quét láng bên trong lu bằng một lớp hồ xi-măng đặc cho trơn lu. Giữ lu khoảng 2 tuần lễ mới bắt đầu sử dụng. Vết nứt Bề dày lu 19 - 25 mm (khoảng đục) 9 • Chứa nước bằng thùng kim loại Nhiều địa phương có thể tận dụng các thùng container, conex, hoặc các thùng chứa của xe bồn, … để trữ nước. Nước có thể hứng từ mái nhà các hội trường, trung tâm làng xã, mái chùa, dãy nhà trường học, … làm các nơi trữ và phân phối nước công cộng, như các hình dưới.  Hình 5: Các hình thức trữ nước mưa bằng thùng kim loại cho cộng đồng Hứng thu nước mưa từ mái nhà Hứng thu nước mưa từ mái nhà Thùng trữ Vòi nước Kệ đỡ Bồn chứa nước Kệ đỡ Đưa nước vào Bồn chứa nước bằng thép tấm, liên kết hàn hoặc bằng đinh tán bu-lon 10 • Trữ nước bằng ao hồ Tại nhiều vùng nông thôn, người ta lợi dụng các vùng trũng dưới đất làm nơi trữ nước, nhất là các ao hồ, kênh mương, … Các nơi trữ này tiện lợi, rẻ tiền, chứa được nhiều nước nhưng có các nhược điểm: • Dễ nhiễm bẩn do bị nước tràn mặt cuốn theo rác rến, các tạp chất hữu cơ và bụi đất vào chỗ chứa. Gia súc nếu không chăn dắt kỹ lưỡng sẽ có thể vào nơi trữ để uống nước làm nước bị nhiễm phân và nhiễm khuẩn. • Dễ bốc hơi và thấm rút do mặt thoáng và mặt tiếp xúc với đất lớn. Các nhược điểm này có thể khắc phục một phần, bằng cách lót tấm trải bằng nylon hoặc lót dale beton mặt dầu phải tốn thêm chi phí xây dựng. Hình dưới đây là một kiểu mẫu ao trữ nước.  Hình 6: Lót đáy kênh, ao bằng tấm trải nylon để ngăn mất nước do thấm, trồng cây chung quanh để hạn chế bốc hơi và làm hàng rào để ngăn gia súc vào. Ta có thể lợi dụng sự chảy tràn trên triền dốc mắt đất để thu hứng nước mưa. Đây là phương pháp áp dụng cho các vùng hải đảo, đồi gò. Cách này ít phổ biến ở vùng ĐBSCL, chỉ trừ một số vùng ở khu vực Thất Sơn (An Giang), Phú Quốc (Kiên Giang). Nước
Tài liệu liên quan