1. Mở đầu
Sư phạm tương tác nói chung và dạy học tương tác nói
riêng là vấn đề đang được nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực
tâm lí học và giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Kết quả
nghiên cứu và thực tiễn đã cho thấy: chất lượng và hiệu quả
dạy học phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và hiệu quả
tương tác giữa thầy và trò. Đây là loại tương tác tâm lí - xã
hội đặc trưng trong nhà trường. Thông qua quá trình tương
tác, giảng viên (GV) tiến hành giảng dạy và giáo dục sinh
viên (SV); SV lĩnh hội, tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các
yêu cầu giáo dục, nhằm phát triển nhân cách.
Đào tạo theo học chế tín chỉ là 01 trong 07 bước quan
trọng của lộ trình đổi mới giáo dục đại học, cao đẳng giai
đoạn 2006-2020. Việc áp dụng phương thức dạy học
theo học chế tín chỉ trong giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học trong môi trường đại học và cao đẳng.
Cùng với một số trường đại học, cao đẳng trên cả nước,
Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang với chức năng,
nhiệm vụ đào tạo đa ngành, đa hệ, đã thực hiện đào tạo
theo học chế tín chỉ, áp dụng đối với hệ Cao đẳng chính
quy khóa 32 (K32) từ năm học 2009.
Hiện nay, với sự hỗ trợ của khoa học công nghệ, con
người có thể tương tác với nhau thông qua các phương
tiện rất phong phú và tiện lợi như: email, yahoo, chat,
webcam, website, facebook, các trang mạng xã hội, Vì
vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng
và hiệu quả tương tác giữa GV và SV, nâng cao chất
lượng đào tạo? Hình thức dạy học theo học chế tín chỉ có
ảnh hưởng đến quá trình tương tác giữa GV và SV hay
không? Đây là những vấn đề đặt ra cần được giải quyết
một cách khoa học để góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo. Bài viết đề cập mức độ tương tác giữa GV và SV
trong dạy học theo học chế tín chỉ ở Trường Cao đẳng Sư
phạm Kiên Giang.
5 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 108 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mức độ tương tác giữa giảng viên và sinh viên trong dạy học theo học chế tín chỉ ở trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 472 (Kì 2 - 2/2020), tr 17-21
17
Email: nguyenthibay2773@gmail.com
MỨC ĐỘ TƯƠNG TÁC GIỮA GIẢNG VIÊN VÀ SINH VIÊN TRONG DẠY HỌC
THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM KIÊN GIANG
Nguyễn Thị Bảy - Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang
Ngày nhận bài: 02/02/2019; ngày chỉnh sửa: 23/02/2019; ngày duyệt đăng: 04/03/2019.
Abstract: Interaction is the development principle of all things and phenomena in the world,
including people. Interaction between lecturers and students in teaching is a special kind of psycho-
social interaction, only in humans, is the integration of social interaction and psychological
interaction. The article mentions the level of interaction between lecturers and students in teaching
under credit system at Kien Giang Teachers Training College.
Keywords: Lecturer, student, credit system, Kien Giang Teachers Training College.
1. Mở đầu
Sư phạm tương tác nói chung và dạy học tương tác nói
riêng là vấn đề đang được nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực
tâm lí học và giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Kết quả
nghiên cứu và thực tiễn đã cho thấy: chất lượng và hiệu quả
dạy học phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và hiệu quả
tương tác giữa thầy và trò. Đây là loại tương tác tâm lí - xã
hội đặc trưng trong nhà trường. Thông qua quá trình tương
tác, giảng viên (GV) tiến hành giảng dạy và giáo dục sinh
viên (SV); SV lĩnh hội, tiếp thu tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, các
yêu cầu giáo dục, nhằm phát triển nhân cách.
Đào tạo theo học chế tín chỉ là 01 trong 07 bước quan
trọng của lộ trình đổi mới giáo dục đại học, cao đẳng giai
đoạn 2006-2020. Việc áp dụng phương thức dạy học
theo học chế tín chỉ trong giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học trong môi trường đại học và cao đẳng.
Cùng với một số trường đại học, cao đẳng trên cả nước,
Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang với chức năng,
nhiệm vụ đào tạo đa ngành, đa hệ, đã thực hiện đào tạo
theo học chế tín chỉ, áp dụng đối với hệ Cao đẳng chính
quy khóa 32 (K32) từ năm học 2009.
Hiện nay, với sự hỗ trợ của khoa học công nghệ, con
người có thể tương tác với nhau thông qua các phương
tiện rất phong phú và tiện lợi như: email, yahoo, chat,
webcam, website, facebook, các trang mạng xã hội, Vì
vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng
và hiệu quả tương tác giữa GV và SV, nâng cao chất
lượng đào tạo? Hình thức dạy học theo học chế tín chỉ có
ảnh hưởng đến quá trình tương tác giữa GV và SV hay
không? Đây là những vấn đề đặt ra cần được giải quyết
một cách khoa học để góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo. Bài viết đề cập mức độ tương tác giữa GV và SV
trong dạy học theo học chế tín chỉ ở Trường Cao đẳng Sư
phạm Kiên Giang.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1. Khái niệm “Tương tác”
Theo [1], “Tương tác” được hiểu là sự tác động qua
lại lẫn nhau, có mối liên hệ, trao đổi thông tin với nhau.
Theo Nguyễn Khắc Viện: “Tương tác là một khái niệm
thuộc về ứng xử: cái này tác động lên cái kia, cái kia tác
động trở lại cái này, hai cái ảnh hưởng lẫn nhau, chứ
không thể ảnh hưởng một chiều” [2; tr 353]. Theo Vũ
Dũng: “Tương tác là sự tác động qua lại, tác động lên
nhau” [3; tr 973].
Như vậy, về nguyên nghĩa và ở mức khái quát nhất,
tương tác là sự tác động qua lại tương ứng lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng trong hiện tượng khách quan, dẫn
đến ảnh hưởng giữa các sự vật và hiện tượng đó. Sự
tương tác giữa các sự vật, hiện tượng có thể được diễn ra
thông qua sự tương tác của các lực cơ học, sự tác động
của năng lượng (năng lượng vật chất giữa các hạt, năng
lượng sinh học của các sinh thể hữu cơ và năng lượng
tâm lí) và sự tác động của các thông tin, sự tác động giữa
các biểu tượng của các chủ thể. Tuy có sự khác nhau về
hình thái tác động nhưng chúng đều có chung bản chất là
sự tác động qua lại, tương ứng giữa các sự vật, hiện tượng
và con người dẫn đến sự thay đổi của cả hai phía.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng: tương
tác là quá trình tác động qua lại giữa các sự vật, hiện
tượng với nhau, trong đó diễn ra sự trao đổi và biến đổi
giữa các sự vật, hiện tượng đó.
2.1.2. Khái niệm “Tương tác giữa giảng viên và sinh viên”
Ở các trường đại học và cao đẳng, sự tác động qua lại
giữa GV và SV diễn ra trên tất cả các mặt nhận thức, cảm
xúc, tình cảm, thái độ và hành vi, Thông qua sự tương
tác trong quá trình đào tạo nhằm hình thành các phẩm
chất và năng lực nghề nghiệp cho SV.
Từ sự phân tích trên, theo chúng tôi: Tương tác giữa GV
và SV là một loại tương tác tâm lí - xã hội đặc biệt, trong đó
có sự tác động qua lại về phương diện tâm lí, nhân cách và
vai trò xã hội; sự tác động này được thể hiện thông qua
nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử của GV đối với SV (và
ngược lại) trong quá trình dạy học và trong cuộc thực tiễn.
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 472 (Kì 2 - 2/2020), tr 17-21
18
Tương tác giữa GV và SV bao hàm tương tác tâm lí,
tương tác liên nhân cách và tương tác xã hội nhưng có
những đặc điểm khác với các mối tương tác khác trong
nhà trường như giữa GV với GV hay giữa SV với SV,
Đó là tương tác tâm lí - xã hội.
2.2. Thực trạng mức độ tương tác giữa giảng viên và
sinh viên trong quá trình dạy học theo học chế tín chỉ
ở Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát 154 SV khoa Tiểu học
mầm non (trong đó 51 SV khóa 35; 50 SV khóa 34 và 53
SV khóa 33), 25 GV thuộc Khoa Tiểu học - Mầm non ở
Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang vào tháng
12/2016, tập trung đánh giá các tiêu chí sau: - Sự hiểu biết
lẫn nhau; - Sự tương hợp tâm lí; - Sự cảm nhận về nhau.
Kết quả khảo sát thực tế được phân tích theo logic từ
các tiêu chí cụ thể đến khái quát chung về tương tác giữa
GV và SV. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu cụ thể:
2.2.1. Thực trạng các mặt biểu hiện của sự tương tác
giữa giảng viên và sinh viên trong dạy học theo học chế
tín chỉ ở Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang
- Về sự hiểu biết lẫn nhau trong tương tác giữa GV
và SV. Sự hiểu biết lẫn nhau là một biểu hiện quan trọng
của mức độ tương tác. Từ khảo sát thực tiễn mức độ hiểu
biết lẫn nhau trong tương tác giữa GV và SV, chúng tôi
thu được kết quả ở bảng 1:
Bảng 1. Mức độ hiểu biết lẫn nhau giữa GV và SV
Mức độ hiểu
biết lẫn nhau
GV (n = 25) SV (n = 154)
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Thấp 0 0 0 0
Dưới
trung bình
1 4,0 4 2,6
Trung bình 4 16,0 13 8,4
Trên
trung bình
15 60,0 112 72,9
Cao 5 20,0 25 16,2
Điểm
trung bình
3,78 3,86
Xét một cách khái quát, sự hiểu biết lẫn nhau giữa GV
và SV trong quá trình tương tác chủ yếu ở mức trên trung
bình. Cả điểm trung bình và tỉ lệ % các mức độ hiểu biết đều
phản ánh điều này. Về điểm trung bình chung, GV hiểu SV
là 3,78 và tỉ lệ mức độ hiểu ở mức trên trung bình là 60%.
SV hiểu về GV, điểm trung bình chung là 3,86; tỉ lệ
mức độ hiểu ở mức trên trung bình là 72,9%, chiếm hơn
một nửa số SV được khảo sát.
Bảng 1 cho thấy: sự hiểu biết của SV về GV cao hơn
sự hiểu biết của GV về SV. Cụ thể, điểm trung bình sự
hiểu biết của SV về GV là 3,86; điểm trung bình sự hiểu
biết của GV về SV là 3,78. Tuy nhiên, tỉ lệ % số GV hiểu
SV trong tương tác ở mức độ cao hơn so với SV, cụ thể
là GV hiểu SV ở mức độ cao là 20,0%, còn SV là 16,2%.
Tỉ lệ GV hiểu SV và SV hiểu GV ở mức độ thấp là
giống nhau. Mức dưới trung bình, GV là: 4,0% và SV là
2,6%. Sự khác biệt về tỉ lệ % và điểm trung bình chung
này đều có ý nghĩa thống kê với P < 0,05.
Như chúng ta đã biết, mức độ tương tác phụ thuộc
vào sự hiểu biết giữa các chủ thể. Do vậy, các chủ thể rất
cần có sự thông hiểu lẫn nhau. Trong khi đó, giữa GV và
SV, mức hiểu nhau ở mức trên trung bình trong quá trình
tương tác, đặc biệt là sự hiểu biết của SV về GV. Vì vậy,
để cải thiện mức độ tương tác, trước hết, GV cần tìm hiểu
tâm tư, nguyện vọng của SV, gần gũi, quan tâm, cởi mở,
tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, điều kiện hoàn cảnh gia
đình, luôn khuyến khích các em thường xuyên chia sẻ
những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của mình.
- Về sự tương hợp tâm lí trong tương tác giữa GV và
SV. Đề tìm hiểu sự tương hợp tâm lí trong tương tác giữa
GV và SV, chúng tôi tìm hiểu các yếu tố xuất hiện trong
quá trình tương tác với nhau như: trạng thái cảm xúc,
quan niệm và thái độ của GV và SV về các nội dung được
đề cập trong quá trình tương tác, sự đồng cảm, quan tâm,
chia sẻ và tính điểm trung bình của từng tiêu chí đánh
giá. Nếu GV và SV đều đánh giá cao về nhau, điểm trung
bình chung từ 4,5-5 được xếp ở mức tương hợp cao.
Điểm trung bình chung từ 3,5-4,5, chúng tôi xếp mức độ
tương hợp trên trung bình. Điểm trung bình chung từ 3,0-
3,5 là mức trung bình và từ 2-2,5 được xếp ở mức dưới
trung bình, còn mức tương hợp thấp có điểm trung bình
từ 1,5-1 (xem bảng 2, 3, 4, 5).
Bảng 2. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn
về sự tương hợp tâm lí giữa GV và SV (theo ý kiến GV)
TT Các yếu tố tâm lí
Tương hợp
tâm lí giữa GV
và SV
Điểm
trung
bình
Độ lệch
chuẩn
1
Tâm trạng thoải mái, tự nhiên
khi trò chuyện
4,36 0,70
2
Tương đồng về quan điểm,
thái độ khi tranh luận/ bàn
bạc về học tập và các hoạt
động khác trong trường
4,72 0,45
3
Tương đồng về quan điểm,
thái độ khi tranh luận/ bàn bạc
về các vấn đề trong xã hội
2,76 1,09
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 472 (Kì 2 - 2/2020), tr 17-21
19
4
Sự đồng cảm và chia sẻ trong
tương tác
4,04 0,88
5
Sự tương đồng về ứng xử
trong tương tác
2,72 1,13
Điểm trung bình chung 3,72 0,85
Kết quả trên cho thấy, GV cảm thấy tương hợp tâm lí
với SV ở mức trung bình và trên trung bình, với điểm
trung bình chung là 3,72, cao hơn mức trung bình (từ 3-
3,5 điểm). Tiêu chí được GV đánh giá cao nhất là tương
đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận, trao đổi về học
tập và các hoạt động khác trong nhà trường, với điểm
trung bình là 4,72, tiếp đến là tâm trạng thoải mái, tự
nhiên khi trò chuyện với điểm trung bình là 4,36. Tiêu
chí GV đánh giá thấp nhất là sự tương đồng về cách ứng
xử trong tương tác, với điểm trung bình là 2,72 và tương
đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận, bàn bạc về các
vấn đề xã hội, với điểm trung bình là 2,76.
Có hai tiêu chí có sự đánh giá không đồng đều của GV
là sự đồng cảm và chia sẻ trong tương tác với độ lệch chuẩn
là 0,88 và sự tương đồng về ứng xử trong tương tác, với độ
lệch chuẩn là 1,13. Xét trung bình chung với độ lệch chuẩn
là 0,85 cho thấy, sự đánh giá của GV chưa có sự thống nhất
cao về mức độ tương hợp với SV trong tương tác.
Theo ý kiến của SV, mức độ tương hợp với GV trong
tương tác cũng chỉ ở mức trung bình và trên trung bình.
Điều này được thể hiện ở điểm trung bình chung là 3,6
cao hơn mức trung bình.
Có 03 tiêu chí SV đánh giá tương đối cao là tương
đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận, thảo luận về
học tập và các hoạt động khác trong nhà trường, với điểm
trung bình là 3,94, tiếp đến là tâm trạng thoải mái, tự
nhiên khi trò chuyện, với điểm trung bình là 3,78 và cuối
cùng là sự tương đồng và chia sẻ trong tương tác, với
điểm trung bình là 3,75.
Nhìn chung, việc đánh giá của SV có sự tương đối
thống nhất, điều đó được thể hiện ở độ lệch chuẩn. Độ
lệch chuẩn trung bình của các tiêu chí là 0,998.
Từ kết quả bảng 4 và bảng 5, phân tích điểm trung bình
và độ lệch chuẩn, chúng tôi nhận thấy: - Mức độ tương
hợp tâm lí trong tương tác giữa GV và SV ở mức trên trung
bình và mức cao; - Ý kiến đánh giá của GV và SV về mức
độ tương hợp có sự khác nhau. Tiêu chí tương đồng về
quan điểm, thái độ khi trao đổi trong học tập và các hoạt
động khác của nhà trường được đánh giá cao nhất; - Sự
đánh giá của GV cũng như SV ở từng tiêu chí cụ thể chưa
hoàn toàn có sự thống nhất với nhau; - SV có sự tương hợp
tâm lí với GV cao hơn GV tương hợp với SV.
Bảng 3. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn về sự tương hợp tâm lí giữa GV và SV (theo ý kiến SV)
TT Các yếu tố tâm lí
Tương hợp tâm lí giữa GV và SV
Điểm trung bình Độ lệch chuẩn
1 Tâm trạng thoải mái, tự nhiên khi trò chuyện 3,78 0,92
2
Tương đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận/bàn bạc
về học tập và các hoạt động khác trong nhà trường
3,94 0,97
3
Tương đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận/bàn bạc về
các vấn đề trong xã hội
3,25 1,02
4 Sự đồng cảm và chia sẻ trong tương tác 3,75 1,02
5 Sự tương đồng về ứng xử trong tương tác 3,31 1,06
Điểm trung bình chung 3,6 0,998
Bảng 4. Mức độ tương hợp tâm lí giữa GV và SV (theo ý kiến GV)
TT Các yếu tố tâm lí
Mức độ (%)
Thấp
Dưới
trung
bình
Trung
bình
Trên
trung
bình
Cao
1 Tâm trạng thoải mái, tự nhiên khi trò chuyện 0 0 12,0 40,0 48,0
2
Tương đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận/thảo
luận về học tập và các hoạt động khác trong nhà trường
0 0 0 28,0 72,0
3
Tương đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận/ thảo
luận về các vấn đề trong xã hội
16,0 20,0 40,0 20,0 4,0
4 Sự đồng cảm và chia sẻ trong tương tác 4,0 0 12,0 56,0 28,0
5 Sự tương đồng về ứng xử trong tương tác 16,0 28,0 28,0 24,0 4,0
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 472 (Kì 2 - 2/2020), tr 17-21
20
- Cảm nhận về nhau giữa GV và SV trong dạy học theo
học chế tín chỉ ở Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang.
Cảm nhận về nhau cũng là một biểu hiện của mức độ trong
quá trình tương tác. Chúng tôi cho rằng, khi cảm nhận tốt
về nhau thì kết quả tương tác sẽ cao. Nếu có cảm nhận
không tốt về nhau thì sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình tương
tác, tương tác sẽ thấp. Nếu trong quá trình tương tác có
cảm nhận tích cực về nhau thì chứng tỏ sự ảnh hưởng lẫn
nhau trong quá trình tương tác diễn ra một cách tích cực.
Ngược lại, nếu cảm nhận không tốt về nhau thì chứng tỏ
sự ảnh hưởng trong quá trình tương tác là tiêu cực.
Bảng 6. Cảm nhận về nhau giữa GV và SV
trong dạy học theo học chế tín chỉ
Cảm nhận
về nhau
GV (n = 25) SV (n = 154)
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Tỉ lệ
% các
mức
Rất tốt 2 8,0 28 18,1
Tốt 18 72,0 98 63,6
Bình
thường
4 16,0 25 16,2
Không
tốt
1 4,0 3 1,9
Rất xấu 0 0 0 0
Điểm trung bình 3,73 3,78
Bảng 6 cho thấy, sự cảm nhận về nhau giữa GV và SV
trong quá trình tương tác tương đối tốt (chủ yếu ở mức
trung bình và tốt). SV cảm nhận về GV tốt hơn GV cảm
nhận về SV. Điều đó được thể hiện ở điểm trung bình
chung và tỉ lệ % ở các mức tốt và rất tốt. Cụ thể, điểm trung
bình của SV là 3,78; còn điểm trung bình của GV là 3,73.
Ở mức rất tốt, SV là 18,1%, trong khi đó GV chỉ có 8,0%.
Ở mức không tốt, SV có 1,9% còn GV có 4,0%. Ở mức
rất xấu, cả GV và SV đều không có. Tuy nhiên, ở mức tốt
thì sự cảm nhận của GV cao hơn sự cảm nhận của SV.
2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng mức độ tương tác
giữa giảng viên và sinh viên trong dạy học theo học chế
tín chỉ ở Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang
Những dữ liệu và phân tích trên đã cho thấy các mức
độ tương tác giữa GV và SV. Tuy nhiên, những số liệu
phản ánh này còn rời rạc từng mặt như: sự hiểu biết; sự
tương hợp tâm lí và sự cảm nhận về nhau, vì thế chưa
cho thấy rõ tổng thể về mức độ tương tác giữa GV và SV.
Để có cái nhìn khái quát hơn về vấn đề này, chúng tôi
tổng hợp toàn bộ các tiêu chí đã xét ở bảng trên bằng cách
lấy trung bình chung của tất cả các tiêu chí đã xét như
điểm trung bình, các chỉ số % của từng mức độ.
Bảng 7. Mức độ tương tác giữa GV và SV
(xét theo chung các tiêu chí)
Các tiêu chí đánh giá
Đánh giá
của GV
(n = 25)
Đánh giá
của SV
(n = 154)
Điểm trung bình chung 3,85 3,89
Tỉ lệ %
các
mức độ,
hiệu quả
tương tác
Thấp 0 0
Dưới
trung bình
0 2,2
Trung bình 19,0 9,5
Trên
trung bình
76,2 84,7
Cao 4,8 3,6
Từ bảng 7, có thể rút ra một số nhận xét về mức độ
tương tác giữa GV và SV như sau: - Mức độ tương tác
giữa GV và SV theo đánh giá của cả hai phía đều chủ yếu
ở mức trung bình và trên trung bình. Ở mức độ thấp theo
đánh giá của GV và SV là không có, còn mức dưới trung
bình và mức cao chiếm một tỉ lệ nhỏ; - SV đánh giá hiệu
quả, mức độ tương tác với GV cao hơn so với đánh giá
của GV.
Bảng 5. Mức độ tương hợp tâm lí trong tương hợp tâm lí giữa GV và SV (theo ý kiến SV)
TT Các yếu tố tâm lí
Mức độ (%)
Thấp
Dưới
trung
bình
Trung
bình
Trên
trung
bình
Cao
1 Tâm trạng thoải mái, tự nhiên khi trò chuyện 1,3 5,2 32,5 35,7 25,3
2
Tương đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận/ thảo
luận về học tập và các hoạt động khác trong trường
1,9 5,8 20,8 39,0 32,5
3
Tương đồng về quan điểm, thái độ khi tranh luận/ thảo
luận về các vấn đề trong xã hội
3,9 21,4 29,9 35,1 9,7
4 Sự đồng cảm và chia sẻ trong tương tác 4,5 5,2 24,7 40,9 24,7
5 Sự tương đồng về ứng xử trong tương tác 6,5 13,6 35,1 31,8 13,0
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 472 (Kì 2 - 2/2020), tr 17-21
21
2.2.3. Thực trạng mức độ khó khăn trong tương tác của
sinh viên và giảng viên trong dạy học theo học chế tín chỉ
ở Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang
Để tìm hiểu mức độ khó khăn của SV và GV trong quá
trình tương tác trong dạy học theo học chế tín chỉ, chúng tôi
đã sử dụng hệ thống câu hỏi kết hợp với phỏng vấn: - Câu
hỏi dành cho SV: “Theo em, trong quá trình tương tác với
GV, em có gặp những khó khăn gì? “Em gặp khó khăn ở
mức độ nào?”; - Câu hỏi dành cho GV: “Trong quá trình
tương tác với SV, Thầy/Cô gặp những khó khăn gì và gặp
khó khăn ở mức độ nào?”. Kết quả thu được ở bảng 8:
Bảng 8 cho thấy, mức độ khó khăn có sự khác nhau
giữa GV và SV. Mức độ “không gặp khó khăn” ở GV
không có nhưng về phía SV là 3,24%; mức độ “ít gặp
khó khăn” của GV chiếm 52%, trong khi SV chỉ có
14,94%; mức độ khó khăn trung bình của GV là 40%,
còn SV là 60,38%; mức độ “khó khăn trên trung bình”
thì tỉ lệ phần trăm của GV là 8%, trong khi ở SV là
16,23%; ở mức “nhiều khó khăn” thì về phía GV không
có, trong khi đó về phía SV là 5,19%.
Xét một cách tổng thể, về phía SV gặp khó khăn được
thể hiện qua 5 mức độ trên là cao hơn so với GV. Điều
này là hợp lí cả về thực tế cũng như về mặt thống kê. Sở
dĩ có sự khác nhau như vậy là do GV đã có trình độ học
vấn chuyên sâu, có kĩ năng sư phạm nên ít gặp khó khăn
hơn. Do SV chưa có nhiều kinh nghiệm sống, chưa được
trải nghiệm trong môi trường sư phạm, nên các em gặp
khó khăn hơn trong quá trình tương tác.
3. Kết luận
Tương tác giữa GV và SV trong dạy học là một loại
tương tác tâm lí - xã hội đặc biệt, chỉ có ở con người; là
sự tích hợp của tương tác xã hội và tương tác tâm lí, có
sự tác động lẫn nhau giữa GV và SV. Trong quá trình
tương tác giữa GV và SV có sự tham gia của nhiều yếu
tố tâm lí như: sự hiểu biết lẫn nhau, sự tương hợp tâm lí
giữa các chủ thể, sự cảm nhận về nhau hay nhu cầu tương
tác, kĩ năng tương tác giữa các chủ thể. Các yếu tố tâm lí
này là các tiêu chí để xác định mức độ tương tác.
Tương tác giữa GV và SV là điều kiện để tiến hành
đào tạo nghề, giáo dục nhân cách cho SV. Mức độ tương
tác có ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo. Việc
chuyển từ hình thức đào tạo niên chế sang hình thức đào
tạo theo học chế tín chỉ nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo,
tạo ra hình thức đào tạo linh hoạt, mềm dẻo. Do vậy, để
nâng cao mức độ tương tác giữa GV và SV trong quá
trình dạy học theo học chế tín chỉ ở Trường Cao đẳng Sư
phạm Kiên Giang, cần xây dựng bầu không khí tâm lí lớp
học thân thiện, sôi nổi, đoàn kết và quan tâm lẫn nhau.
GV cần chú ý dành nhiều thời gian để tiếp xúc với SV,
tạo cơ hội, điều kiện cho các em được gặp gỡ, tiếp xúc,
trò chuyện, trao đổi, bày tỏ những suy nghĩ, quan niệm
của mình; GV cần hình thành cho SV tính tích cực, chủ
động, tự giác trong học tập, nâng cao hiểu biết cho các
em về đặc điểm tâm - sinh lí lứa tuổi.
Tài liệu tham khảo
[1] Nguyễn Như Ý (2000, chủ biên). Đại từ điển Tiếng
Việt. NXB Văn hóa - Thông tin.
[2] Nguyễn Khắc Viện (2001). Từ điển Tâm lí. NXB
Văn hóa - Thông tin.
[3] Vũ Dũng