Năng lực người học là sản phẩm “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề”

I. ĐẶT VẤN ĐỀ(*)(**) Trên 150 năm đã qua, các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin đã chỉ ra rằng: Con người sinh ra có quyền bình đẳng, họ chỉ khác nhau về năng lực (1). Năng lực là gì? Năng lực được hình thành bằng cách nào? Năng lực có vai trò gì trong đời sống cá nhân và cộng đồng xã hội?. Đó là những vấn đề mang tính lý luận về năng lực. Nhiều công trình khoa học đã và đang nghiên cứu về năng lực người cho thấy năng lực người là một cấu trúc tâm lý bên trong của mỗi cá nhân, được bộc lộ ra bên ngoài bằng hệ thống những hành vi, hành động phù hợp với yêu cầu đòi hỏi đặc trưng của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao trong những điều kiện xác định. Năng lực người với cách hiểu trên có hai nội dung cụ thể. Một là: Cái riêng, cái riêng của cá nhân duy nhất, có một không hai; bởi lẽ năng lực cá nhân rất khác nhau do cấu tạo và chức năng hoạt động của não, hệ thần kinh, các giác quan, các tuyến nội tiết.mỗi người phản ánh hiện thực khách quan khác nhau, theo đó mỗi người có một “bản đồ nhận thức thế giới” khác nhau. “Bản đồ nhận thức thế giới” của cá nhân được mỗi cá nhân vẽ bởi hoạt động của năm giác quan, vốn sống kinh nghiệm (bằng hành động trải nghiệm), tri thức khoa học (học từ nhà trường), bằng những rung cảm (cảm xúc) cá nhân. Từ đó điều khiển, điều chỉnh hành vi, hành động cá nhân đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của một hoạt động nhất định trong những điều kiện cụ thể đảm bảo hoạt động có hiệu quả cao. Hai là: Cái chung, cái chung của con người, bởi lẽ hoạt động của con người thực hiện mang24 tính xã hội cao (hoạt động xã hội), vì cái chung của con người mà năng lực cũng có thể gọi là năng lực người. Hơn thế nữa năng lực cá nhân phải được thể hiện trong hoạt động xã hội, môi trường xã hội được xã hội đánh giá bằng các sản phẩm vật chất hoặc tinh thần đáp ứng các nhu cầu của cá nhân và xã hội. Với ý nghĩa đó, chỉ xét về năng lực, chúng ta đã nhận thấy có “hai con người” thống nhất trong một nhân cách toàn vẹn, đó là con người cá nhân và con người xã hội.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Năng lực người học là sản phẩm “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 - Thaùng 11/2014 23 NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC LÀ SẢN PHẨM “DẠY CHỮ, DẠY NGƯỜI, DẠY NGHỀ” NGÔ CÔNG HOÀN (*) LÊ MINH (**) TÓM TẮT Năng lực người, năng lực nghề hội tụ đủ ba nội dung, là sản phẩm của “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề” đó là: Kiến thức, nhân cách người lao động chất lượng cao, kỹ năng nghề nghiệp. Từ khóa: năng lực người, năng lực nghề ABSTRACT The human capability and the vocational skills are converged on the three categories as the outcome of “teach literacy, vocational”; knowledge, the personality of high quality laborers and vocational skills Keywords: personal capability, vocational skills I. ĐẶT VẤN ĐỀ(*)(**) Trên 150 năm đã qua, các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin đã chỉ ra rằng: Con người sinh ra có quyền bình đẳng, họ chỉ khác nhau về năng lực (1). Năng lực là gì? Năng lực được hình thành bằng cách nào? Năng lực có vai trò gì trong đời sống cá nhân và cộng đồng xã hội?... Đó là những vấn đề mang tính lý luận về năng lực. Nhiều công trình khoa học đã và đang nghiên cứu về năng lực người cho thấy năng lực người là một cấu trúc tâm lý bên trong của mỗi cá nhân, được bộc lộ ra bên ngoài bằng hệ thống những hành vi, hành động phù hợp với yêu cầu đòi hỏi đặc trưng của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao (*)PGS.TS, nguyên Giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (**)Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội trong những điều kiện xác định. Năng lực người với cách hiểu trên có hai nội dung cụ thể. Một là: Cái riêng, cái riêng của cá nhân duy nhất, có một không hai; bởi lẽ năng lực cá nhân rất khác nhau do cấu tạo và chức năng hoạt động của não, hệ thần kinh, các giác quan, các tuyến nội tiết...mỗi người phản ánh hiện thực khách quan khác nhau, theo đó mỗi người có một “bản đồ nhận thức thế giới” khác nhau. “Bản đồ nhận thức thế giới” của cá nhân được mỗi cá nhân vẽ bởi hoạt động của năm giác quan, vốn sống kinh nghiệm (bằng hành động trải nghiệm), tri thức khoa học (học từ nhà trường), bằng những rung cảm (cảm xúc) cá nhân... Từ đó điều khiển, điều chỉnh hành vi, hành động cá nhân đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi của một hoạt động nhất định trong những điều kiện cụ thể đảm bảo hoạt động có hiệu quả cao. Hai là: Cái chung, cái chung của con người, bởi lẽ hoạt động của con người thực hiện mang 24 tính xã hội cao (hoạt động xã hội), vì cái chung của con người mà năng lực cũng có thể gọi là năng lực người. Hơn thế nữa năng lực cá nhân phải được thể hiện trong hoạt động xã hội, môi trường xã hội được xã hội đánh giá bằng các sản phẩm vật chất hoặc tinh thần đáp ứng các nhu cầu của cá nhân và xã hội. Với ý nghĩa đó, chỉ xét về năng lực, chúng ta đã nhận thấy có “hai con người” thống nhất trong một nhân cách toàn vẹn, đó là con người cá nhân và con người xã hội. Thực tiễn hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục, các chính sách, cơ chế và các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục; hướng đến phát triển năng lực người học, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức sang tập trung phát triển nhân cách toàn diện chú trọng đến năng lực và phẩm chất người học”. Từ phân tích trên giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục đào tạo giáo viên nói riêng phải hướng đến phát triển năng lực người học. Vậy, năng lực theo quan điểm tâm lý học là gì? Có cấu trúc gồm những thành phần nào? II. NĂNG LỰC VÀ CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA NĂNG LỰC Năng lực là gì? Hiện nay tồn tại nhiều cách hiểu năng lực. Song nói đến năng lực người, các nhà tâm lý học tương đối thống nhất theo quan điểm cấu trúc rằng, năng lực người là một cấu trúc tâm lý bên trong của cá nhân, nó bao gồm nhiều thành phần, nhiều tính chất đặc trưng, linh hoạt vận động không ngừng, được thể hiện ở hệ thống các thao tác hành vi, hành động phù hợp với yêu cầu đòi hỏi đặc trưng của một hoạt động nhất định, trong những điều kiện và hoàn cảnh xác định đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả. Năng lực cũng có thể hiểu theo nguồn gốc hình thành, đó là cấu trúc tâm lý phức hợp bên trong của mỗi cá nhân được hình thành từ quá trình hoạt động hứng thú, say mê với các cảm xúc và tư duy tích cực có định hướng của tri thức, đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả trong những điều kiện nhất định. Theo cách hiểu này, năng lực không phải là bẩm sinh, mà chỉ được hình thành trong hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội, tích cực lâu dài của cá nhân trong một lĩnh vực hoạt động nhất định với đối tượng, phương tiện và điều kiện hoạt động ổn định tương đối bền vững. 1. Cấu trúc tâm lý của năng lực. Năng lực là một cấu trúc tâm lý động, được hình thành từ hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội của mỗi cá nhân. Trong quá trình hoạt động thực tiễn và hoạt động xã hội cá nhân nhận thức, lĩnh hội được các tri thức (kiến thức) về đối tượng, điều kiện và phương tiện hoạt động (Đó là bản chất, tính chất, quy luật hình thành, phát triển, vận động...của chúng), có tri thức rồi chưa đủ, để đảm bảo cho con người hoạt động có hiệu quả, nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh rất thuyết phục, rằng 85% người tìm được việc làm, được thăng chức, khả năng thành công trong công việc là nhờ vào thái độ của họ, còn 15% là do trí thông minh và kiến thức thực tiễn (Theo nghiên cứu của Đại học Harvard) (2). - Thái độ (attitude) về bản chất là một cấu trúc tâm lý tích hợp từ nhận thức (đặc trưng là tư duy) cảm xúc của cá nhân, thực 25 hiện chức năng đánh giá, định hướng, điều chỉnh, điều khiển, thúc đẩy hành vi hoạt động của cá nhân, nhóm xã hội hướng tới các mục tiêu phát triển (do tri thức dẫn đường) cá nhân và cộng đồng xã hội trong các điều kiện lịch sử - xã hội nhất định (3). Theo cách hiểu này thì thái độ bao gồm hai nội dung đó là nhận thức (đỉnh cao là tư duy) và cảm xúc. Thái độ = Nhận thức (tư duy) + Cảm xúc  Cảm xúc cung cấp nguồn năng lượng cho hành động, cảm xúc tạo hứng thú say mê (hoặc ngược lại chán nản, buồn bã...) luôn luôn là nguồn cảm hứng hoặc ngược lại cho hành động, không có cảm xúc hành động thiếu động lực.  Tư duy thực hiện chức năng tìm kiếm, lựa chọn các cách thực hiện hành động, cùng với tưởng tượng xây dựng những kịch bản, chiến lược, lộ trình khác nhau để thực hiện hành động sao cho hợp lý đỡ tốn năng lượng cơ bắp và tinh thần mà hiệu quả cao, hạn chế tối đa nguồn lực mà vẫn có kết quả tốt.  Tri thức (knowledge) xác định mục tiêu phải đạt được, các đích phải đến của hành động; không có tri thức, người ta hành động không có phương hướng, không có đích, chẳng khác nào con thuyền trôi vô định trên đại dương mênh mông; không có tri thức hành động của con người chẳng khác nào con ngựa chạy không cương, không có người điều khiển. Tri thức xác định phương hướng, xác định mục tiêu và trả lời cho câu hỏi vì sao phải hành động như vậy? Hành động như vậy để đạt được cái gì? Sản phẩm hoạt động là gì? - Thành phần thứ ba của năng lực là kỹ năng (skills). Kỹ năng là hệ thống các thao tác hành động, hành vi được tư duy và cảm xúc tích cực lựa chọn từ những tri thức, vốn sống kinh nghiệm, thái độ của cá nhân trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đảm bảo hoạt động có kết quả theo hướng tích cực. Kỹ năng là sản phẩm tích hợp đỉnh cao biểu hiện của năng lực. Tóm lại, năng lực người nói chung và năng lực nghề nghiệp nói riêng là một cấu trúc tâm lý động bao gồm tri thức, thái độ và kỹ năng, các thành phần này được phối hợp hoạt động linh hoạt, cơ động và rất nhạy bén – Nhiều lúc con người hành động như là thói quen (habit) hành động do được luyện tập lâu dài, bền vững. Năng lực = Tri thức (kiến thức) + Thái độ (tư duy và cảm xúc) + Kỹ năng (4) Năng lực tuyệt đối không phải là sự cộng cơ học các thành phần tri thức, thái độ và kỹ năng, mà là sự tích hợp, phối hợp hài hòa theo quy luật riêng có sự điều chỉnh của ý thức, trực giác. III. SỰ THỐNG NHẤT BIỆN CHỨNG GIỮA DẠY CHỮ, DẠY NGƯỜI, DẠY NGHỀ TRONG NĂNG LỰC Hiện nay hoạt động dạy, lấy người học làm trung tâm, đặc biệt là bậc phổ thông tác động vào con người, đầu tiên là cung cấp tri thức, kiến thức khoa học, coi trọng dạy kiến thức. Trước đây, đã một thời gian dài nhà trường theo quan điểm nho giáo “Tiên học lễ, hậu học văn” quan tâm đến dạy làm người trước rồi đến dạy chữ (dạy tri thức khoa học) sau. Do mục tiêu đào tạo của các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp khác nhau, nên việc tuyển sinh vào hệ thống các trường này lại quan tâm đầu tiên là thái độ của người học. Thí sinh, đặc biệt phải có thái độ tích cực đối với ngành, nghề mình chọn, phải thực sự hứng thú, yêu thích ngành nghề mình học thì mới có kết quả học tập tốt, theo đó mới khơi dạy được những tiềm năng, lợi 26 thế của mình cho hoạt động sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp và do vậy, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp chỉ tuyển thí sinh có nguyện vọng xin dự thi vào trường (chủ yếu dành cho nguyện vọng 1). Việc “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề” đang tồn tại ở các loại trường học, bậc học ở nước ta tùy theo mục tiêu đào tạo của bậc học, cấp học, loại hình trường học mà ưu thế dạy chữ, dạy người, dạy nghề khác nhau. Ví dụ, bậc học giáo dục mầm non: Chăm sóc – giáo dục trẻ từ 3 tháng đến 6 tuổi. Mục tiêu khái quát nhất là dạy trẻ làm người, hình thành ở trẻ những tố chất nền tảng của con người, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, hình thành những năng lực người. Quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường mầm non hướng đến hình thành những tố chất nền tảng năng lực người cho trẻ như: Năng lực quan sát, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp xã hội (năng lực tương tác, năng lực độc lập, năng lực tự chủ, năng lực tự khẳng định mình...), năng lực tư duy, năng lực sáng tạo, năng lực nhận thức, năng lực tính toán, năng lực tự bảo vệ bản thân... Trong khi đó, bậc học đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp thì lại quan tâm đến dạy chữ và dạy nghề, có những trình độ, những lúc và tùy theo ngành nghề mà dạy nghề được coi trọng hơn tri thức khoa học. Việc coi trọng khâu nào trong quá trình hình thành, phát triển năng lực người, năng lực nghề nói cách khác là quan tâm đến lĩnh vực nào “Dạy người, dạy chữ, dạy nghề” phụ thuộc vào mục tiêu đào tạo của bậc học, trình độ học vấn, loại hình đào tạo. Song, dù ở loại hình đào tạo nào, bậc học nào xét về toàn diện và khái quát thì giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế phải hướng vào phát triển nhân cách toàn diện cho người học, trong đó phải hướng vào phát triển năng lực người học để đáp ứng được các yêu cầu cao về nguồn nhân lực cho sự phát triển xã hội. Năng lực theo cách nhìn của tâm lý học đã hội tụ cả 3 nội dung: Dạy người - để có năng lực, hình thành nhân cách. Dạy chữ - để có kiến thức, thái độ (tư duy, cảm xúc). Dạy nghề - Năng lực nghề, kỹ năng nghề, cảm xúc tích cực với nghề. Tóm lại, theo cách tiếp cận trên, năng lực người, năng lực nghề mà giáo dục và đào tạo hướng đích là sự thống nhất biện chứng hài hòa giữa “Dạy người, dạy chữ và dạy nghề” có thể ưu thế trội của từng nội dung dạy chữ, dạy người, dạy nghề ở các bậc học, loại hình đào tạo khác nhau. Ví dụ, bậc học mầm non ưu thế trội là dạy trẻ làm người (dạy người); các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp lại quan tâm nhiều hơn đến dạy nghề, dạy chữ. Các trường học phổ thông lại quan tâm đến sự hài hòa cân đối giữa dạy kiến thức (dạy chữ) và dạy làm người (dạy người). IV. BẬC HỌC GIÁO DỤC MẦM NON VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHỮNG TỐ CHẤT, NỀN TẢNG CỦA NĂNG LỰC NGƯỜI TỪ QUÁ TRÌNH CHĂM SÓC GIÁO DỤC TRẺ Hiện nay có nhiều cách tiếp cận về các tố chất nền tảng hình thành năng lực người cho trẻ em. Ở bài viết này, xin trình bày ba cách tiếp cận hình thành phát triển các tố chất nền tảng, yếu tố đầu tiên cơ bản cho năng lực người. 27 1. Cách tiếp cận của người thành công và hạnh phúc của GS.M.Bernard nhà tâm lý học, giáo dục học Úc Bằng quan sát khoa học và khảo sát những người thành công trong sự nghiệp và hạnh phúc trong gia đình và các quan hệ xã hội. Với 15 năm nghiên cứu và tiến hành thử nghiệm đã xây dựng thành công chương trình giáo dục You can do it. Chương trình hướng vào xây dựng 5 tố chất nền tảng: Tự tin, kiên trì, tổ chức, hòa nhập, thích ứng. 1.1. Tự tin: Phần lớn người thành công và nổi tiếng họ có đức tính tự tin, đặc biệt họ có niềm tin tuyệt đối vào bản thân mình. Bằng trải nghiệm, ai cũng đã từng đi thi hoặc đứng trước đám đông trả lời những câu hỏi hoặc thuyết trình chính kiến riêng của mình, đều nhận ra rằng phần đông người nào tự tin người đó sẽ có kết quả tốt. Điều quan trọng ở những người có tính tự tin là họ có thói quen tư duy tích cực là điểm tựa cho sự tự tin đó là: Biết tự lập, luôn tin là “Tôi có thể”, biết chấp nhận chính mình, biết chấp nhận rủi ro. 1.2. Kiên trì: Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan đều hình thành, phát triển vận động có tính quy luật trong một quá trình xác định, nghĩa là phải có thời gian, không có một sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội, con người nào đột ngột sinh ra, bất ngờ xuất hiện hoặc mất đi, chúng đều diễn ra trong một quá trình. Do vậy nắm được quy luật này, con người phải biết kiên trì chờ đợi ở một thời điểm nào đó trong một quá trình “Vì sự nghiệp 10 năm thì trồng cây. Vì sự nghiệp 100 năm phải trồng người”. Không thể nôn nóng “Dục tốc bất đạt”, kiên trì việc gì cũng đạt. Ngay như bát nước đun sôi muốn uống thì phải chờ đợi thì mới an toàn. Đằng sau tính kiên trì là những thói quen tư duy được hình thành đó là: Luôn tin là “Tôi có thể”, nỗ lực phấn đấu, dám làm việc khó, biết thiết lập mục tiêu, có kế hoạch quản lý thời gian. 1.3. Tổ chức: Các sự vật, hiện tượng khách quan được hình thành, phát triển đều theo một quy trình, một trật tự nhất định. Ví dụ, đứa trẻ sau khi sinh thì bú sữa mẹ, sau 4 tháng thì ăn dặm thêm (ngoài sữa mẹ), dần dần trẻ ăn cháo, cơm khi đã có răng hàm để nhai...rồi lớn dần lớn theo các độ tuổi...Ai có được cách nhận thức này chỉ đạo hành vi, hành động của mình thì góp phần thành công trong hoạt động và hạnh phúc trong cuộc sống. Phương pháp luận nhận thức ở tính tổ chức là hình thành thói quen tư duy: Biết thiết lập mục tiêu cho hành động, hoạt động của mình (gần, xa, ngắn hạn, trung hạn, dài hạn sau này); có kế hoạch quản lý thời gian, phân phối thời gian hợp lý cho các công việc. 1.4. Khả năng hòa nhập: Con người xã hội tồn tại vận động và phát triển trong quan hệ với mọi người để được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Bản thân mỗi người là sản phẩm giao tiếp xã hội, thông qua tình yêu thương của cha mẹ ta, ta lớn lên phát triển là nhờ sự hợp tác chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục của mọi người. Hòa nhập để tồn tại và phát triển; những thói quen tư duy kích thích phát triển khả năng hòa nhập là: Có trách nhiệm xã hội; Luôn tuân thủ các quy định, quy tắc; Suy nghĩ hậu quả trước khi nói và hành động; Biết thông cảm (đồng cảm) với người khác. 1.5. Khả năng thích ứng: Tự nhiên, xã hội và bản thân mỗi người luôn ở trạng thái vận động không ngừng để tồn tại và phát triển, nghĩa là sự thay đổi, đổi mới liên tục diễn ra hàng giờ, hàng ngày. Do vậy, con người phải thích ứng (thích nghi) mới tồn 28 tại và phát triển được, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức thời đại bùng nổ thông tin (công nghệ thông tin phát triển). Muốn có khả năng thích ứng trẻ phải được nhận thức, được trải nghiệm qua hành động loại bỏ, ứng phó một cách tích cực với những: Lo lắng, thất vọng (bất an), chần chừ (do dự), mất tập trung – làm phiền người khác, tức giận – không cư xử đúng mức. Năm tố chất nền tảng trên phải được trẻ nhận thức và trải nghiệm bằng hành động thông qua các hoạt động cơ bản ở trường mầm non, được tích hợp vào các nội dung giáo dục phát triển thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ và tình cảm – xã hội ở mọi lúc mọi nơi. Từ năm tố chất trên các năng lực: Năng lực quan sát (biết kiên trì, tự tin), năng lực nhận thức, năng lực giao tiếp xã hội, năng lực tự chủ, năng lực tự khẳng định mình, năng lực sáng tạo, năng lực xác định mục đích, mục tiêu, năng lực phân phối thời gian (xây dựng chương trình, kế hoạch...)...được hình thành ở trẻ. 2. Cách tiếp cận giáo dục các giá trị sống Theo Diane Tillman và Diana Hsu khoảng 80% nhận thức về cuộc sống, về mọi vật xung quanh của con người được hình thành trước 8 tuổi. Nhận thức về giá trị sống để hoàn thiện nhận thức cho trẻ từ 0 đến 7 tuổi theo các nhà giáo dục và tâm lý là rất cần thiết cho sự phát triển của trẻ. Theo các nhà tâm lý học, sự tiếp thu của trẻ ở độ tuổi từ 3 đến 7 tuổi phải được diễn ra thông qua quá trình tự khám phá, suy ngẫm và trải nghiệm. Với ý nghĩa đó những hoạt động giá trị cho trẻ từ 3 đến 7 tuổi cần có sự hỗ trợ, hướng dẫn của cha mẹ và cô giáo mầm non. Theo các tác giả (5) mặc dù các bài học được thiết kế rõ ràng và được chỉ dẫn rất cụ thể, song điều quan trọng là phải tạo lập được bầu không khí học tập an toàn cho trẻ. Chương trình giáo dục những giá trị sống (Living Values Education Program – LVEP) đưa ra một loạt các hoạt động mang tính trải nghiệm và các phương pháp thực hành dành cho giáo viên mầm non và người hướng dẫn, nhằm giúp trẻ có điều kiện khám phá và phát triển 12 giá trị căn bản của cá nhân và xã hội đó là: Hợp tác, tự do, hạnh phúc, trung thực, khiêm tốn, yêu thương, hòa bình, tôn trọng, trách nhiệm, giản dị, khoan dung và đoàn kết. Riêng trẻ em lứa tuổi mầm non từ 3 tuổi đến 7 tuổi các tác giả chương trình giáo dục những giá trị sống khuyến cáo, trẻ chỉ cần khám phá và trải nghiệm 11 giá trị đó là: Hòa bình, tôn trọng, yêu thương, trách nhiệm, hạnh phúc, khoan dung, hợp tác, trung thực, khiêm tốn, giản dị và đoàn kết. Đó là các giá trị như là các kiến thức cần cho năng lực người và năng lực nghề, điểm tựa nhân văn quan trọng để năng lực người, năng lực nghề hướng đến tạo ra các sản phẩm vật chất tinh thần phục vụ cho con người. 3. Cách tiếp cận hình thành những thói quen hành vi xã hội Xuất phát từ cơ sở lý luận con người có hai bản tính, bản tính tự nhiên và bản tính xã hội. Bản tính tự nhiên do cấu tạo và hoạt động của não, tế bào thần kinh, các tuyến nội tiết...quy định. Ví dụ: Bản tính tự nhiên của con người thích chơi, không thích lao động, thích được khen hơn bị chê, thích ăn ngon mặc đẹp hơn bị đói khổ, biết nói dối để tồn tại, phát triển khi có cơ hội...Bản tính xã hội do rèn luyện hàng ngày, giáo dục thường xuyên mới có được. Bản tính xã hội – về bản chất là các thói quen hành vi xã hội được rèn luyện bằng hành động trải nghiệm hàng ngày trong tất 29 cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Thói quen hành vi xã hội được hình thành bằng hai con đường đó là bắt chước vô thức (tuân theo vô điều kiện) hoặc bắt chước có ý thức (khám phá, suy ngẫm và hành động trải nghiệm tập quen). Thói quen hành vi xã hội còn được gọi là bản tính thứ hai của con người (phần lớn bản tính xã hội của con người được hình thành từ đây).(6) Với cách tiếp cận này trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ ở các trường mầm non, cần giáo dục trẻ để hình thành các thói quen hành vi xã hội trong các lĩnh vực đời s
Tài liệu liên quan