I. ĐẶT VẤN ĐỀ(*)(**)
Trên 150 năm đã qua, các tác giả kinh
điển của chủ nghĩa Mác–Lênin đã chỉ ra
rằng: Con người sinh ra có quyền bình
đẳng, họ chỉ khác nhau về năng lực (1).
Năng lực là gì? Năng lực được hình thành
bằng cách nào? Năng lực có vai trò gì
trong đời sống cá nhân và cộng đồng xã
hội?. Đó là những vấn đề mang tính lý
luận về năng lực.
Nhiều công trình khoa học đã và đang
nghiên cứu về năng lực người cho thấy
năng lực người là một cấu trúc tâm lý bên
trong của mỗi cá nhân, được bộc lộ ra bên
ngoài bằng hệ thống những hành vi, hành
động phù hợp với yêu cầu đòi hỏi đặc
trưng của một hoạt động nhất định, đảm
bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao
trong những điều kiện xác định.
Năng lực người với cách hiểu trên có
hai nội dung cụ thể. Một là: Cái riêng, cái
riêng của cá nhân duy nhất, có một không
hai; bởi lẽ năng lực cá nhân rất khác nhau
do cấu tạo và chức năng hoạt động của não,
hệ thần kinh, các giác quan, các tuyến nội
tiết.mỗi người phản ánh hiện thực khách
quan khác nhau, theo đó mỗi người có một
“bản đồ nhận thức thế giới” khác nhau.
“Bản đồ nhận thức thế giới” của cá nhân
được mỗi cá nhân vẽ bởi hoạt động của
năm giác quan, vốn sống kinh nghiệm
(bằng hành động trải nghiệm), tri thức khoa
học (học từ nhà trường), bằng những rung
cảm (cảm xúc) cá nhân. Từ đó điều khiển,
điều chỉnh hành vi, hành động cá nhân đáp
ứng các yêu cầu đòi hỏi của một hoạt động
nhất định trong những điều kiện cụ thể đảm
bảo hoạt động có hiệu quả cao. Hai là: Cái
chung, cái chung của con người, bởi lẽ
hoạt động của con người thực hiện mang24
tính xã hội cao (hoạt động xã hội), vì cái
chung của con người mà năng lực cũng có
thể gọi là năng lực người. Hơn thế nữa
năng lực cá nhân phải được thể hiện trong
hoạt động xã hội, môi trường xã hội được
xã hội đánh giá bằng các sản phẩm vật chất
hoặc tinh thần đáp ứng các nhu cầu của cá
nhân và xã hội. Với ý nghĩa đó, chỉ xét về
năng lực, chúng ta đã nhận thấy có “hai
con người” thống nhất trong một nhân cách
toàn vẹn, đó là con người cá nhân và con
người xã hội.
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 269 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Năng lực người học là sản phẩm “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 24 - Thaùng 11/2014
23
NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC LÀ SẢN PHẨM
“DẠY CHỮ, DẠY NGƯỜI, DẠY NGHỀ”
NGÔ CÔNG HOÀN
(*)
LÊ MINH
(**)
TÓM TẮT
Năng lực người, năng lực nghề hội tụ đủ ba nội dung, là sản phẩm của “Dạy chữ, dạy
người, dạy nghề” đó là: Kiến thức, nhân cách người lao động chất lượng cao, kỹ năng
nghề nghiệp.
Từ khóa: năng lực người, năng lực nghề
ABSTRACT
The human capability and the vocational skills are converged on the three categories
as the outcome of “teach literacy, vocational”; knowledge, the personality of high quality
laborers and vocational skills
Keywords: personal capability, vocational skills
I. ĐẶT VẤN ĐỀ(*)(**)
Trên 150 năm đã qua, các tác giả kinh
điển của chủ nghĩa Mác–Lênin đã chỉ ra
rằng: Con người sinh ra có quyền bình
đẳng, họ chỉ khác nhau về năng lực (1).
Năng lực là gì? Năng lực được hình thành
bằng cách nào? Năng lực có vai trò gì
trong đời sống cá nhân và cộng đồng xã
hội?... Đó là những vấn đề mang tính lý
luận về năng lực.
Nhiều công trình khoa học đã và đang
nghiên cứu về năng lực người cho thấy
năng lực người là một cấu trúc tâm lý bên
trong của mỗi cá nhân, được bộc lộ ra bên
ngoài bằng hệ thống những hành vi, hành
động phù hợp với yêu cầu đòi hỏi đặc
trưng của một hoạt động nhất định, đảm
bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao
(*)PGS.TS, nguyên Giảng viên Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội
(**)Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội
trong những điều kiện xác định.
Năng lực người với cách hiểu trên có
hai nội dung cụ thể. Một là: Cái riêng, cái
riêng của cá nhân duy nhất, có một không
hai; bởi lẽ năng lực cá nhân rất khác nhau
do cấu tạo và chức năng hoạt động của não,
hệ thần kinh, các giác quan, các tuyến nội
tiết...mỗi người phản ánh hiện thực khách
quan khác nhau, theo đó mỗi người có một
“bản đồ nhận thức thế giới” khác nhau.
“Bản đồ nhận thức thế giới” của cá nhân
được mỗi cá nhân vẽ bởi hoạt động của
năm giác quan, vốn sống kinh nghiệm
(bằng hành động trải nghiệm), tri thức khoa
học (học từ nhà trường), bằng những rung
cảm (cảm xúc) cá nhân... Từ đó điều khiển,
điều chỉnh hành vi, hành động cá nhân đáp
ứng các yêu cầu đòi hỏi của một hoạt động
nhất định trong những điều kiện cụ thể đảm
bảo hoạt động có hiệu quả cao. Hai là: Cái
chung, cái chung của con người, bởi lẽ
hoạt động của con người thực hiện mang
24
tính xã hội cao (hoạt động xã hội), vì cái
chung của con người mà năng lực cũng có
thể gọi là năng lực người. Hơn thế nữa
năng lực cá nhân phải được thể hiện trong
hoạt động xã hội, môi trường xã hội được
xã hội đánh giá bằng các sản phẩm vật chất
hoặc tinh thần đáp ứng các nhu cầu của cá
nhân và xã hội. Với ý nghĩa đó, chỉ xét về
năng lực, chúng ta đã nhận thấy có “hai
con người” thống nhất trong một nhân cách
toàn vẹn, đó là con người cá nhân và con
người xã hội.
Thực tiễn hiện nay, đất nước ta đang
trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa,
hội nhập quốc tế, Ban chấp hành Trung
ương Đảng ra Nghị quyết về “Đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi
mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ
tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống,
chương trình giáo dục, các chính sách, cơ
chế và các điều kiện đảm bảo chất lượng
giáo dục; hướng đến phát triển năng lực
người học, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài; chuyển mạnh quá trình giáo dục
từ chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức
sang tập trung phát triển nhân cách toàn
diện chú trọng đến năng lực và phẩm chất
người học”.
Từ phân tích trên giáo dục và đào tạo
nói chung, giáo dục đào tạo giáo viên nói
riêng phải hướng đến phát triển năng lực
người học. Vậy, năng lực theo quan điểm
tâm lý học là gì? Có cấu trúc gồm những
thành phần nào?
II. NĂNG LỰC VÀ CẤU TRÚC TÂM LÝ
CỦA NĂNG LỰC
Năng lực là gì? Hiện nay tồn tại nhiều
cách hiểu năng lực. Song nói đến năng lực
người, các nhà tâm lý học tương đối thống
nhất theo quan điểm cấu trúc rằng, năng
lực người là một cấu trúc tâm lý bên trong
của cá nhân, nó bao gồm nhiều thành phần,
nhiều tính chất đặc trưng, linh hoạt vận
động không ngừng, được thể hiện ở hệ
thống các thao tác hành vi, hành động phù
hợp với yêu cầu đòi hỏi đặc trưng của một
hoạt động nhất định, trong những điều kiện
và hoàn cảnh xác định đảm bảo cho hoạt
động có hiệu quả.
Năng lực cũng có thể hiểu theo nguồn
gốc hình thành, đó là cấu trúc tâm lý phức
hợp bên trong của mỗi cá nhân được hình
thành từ quá trình hoạt động hứng thú, say
mê với các cảm xúc và tư duy tích cực có
định hướng của tri thức, đảm bảo cho hoạt
động có hiệu quả trong những điều kiện
nhất định. Theo cách hiểu này, năng lực
không phải là bẩm sinh, mà chỉ được hình
thành trong hoạt động thực tiễn, hoạt động
xã hội, tích cực lâu dài của cá nhân trong
một lĩnh vực hoạt động nhất định với đối
tượng, phương tiện và điều kiện hoạt động
ổn định tương đối bền vững.
1. Cấu trúc tâm lý của năng lực.
Năng lực là một cấu trúc tâm lý động,
được hình thành từ hoạt động thực tiễn,
hoạt động xã hội của mỗi cá nhân. Trong
quá trình hoạt động thực tiễn và hoạt động
xã hội cá nhân nhận thức, lĩnh hội được các
tri thức (kiến thức) về đối tượng, điều kiện
và phương tiện hoạt động (Đó là bản chất,
tính chất, quy luật hình thành, phát triển,
vận động...của chúng), có tri thức rồi chưa
đủ, để đảm bảo cho con người hoạt động
có hiệu quả, nhiều nghiên cứu khoa học đã
chứng minh rất thuyết phục, rằng 85%
người tìm được việc làm, được thăng chức,
khả năng thành công trong công việc là
nhờ vào thái độ của họ, còn 15% là do trí
thông minh và kiến thức thực tiễn (Theo
nghiên cứu của Đại học Harvard) (2).
- Thái độ (attitude) về bản chất là một
cấu trúc tâm lý tích hợp từ nhận thức (đặc
trưng là tư duy) cảm xúc của cá nhân, thực
25
hiện chức năng đánh giá, định hướng, điều
chỉnh, điều khiển, thúc đẩy hành vi hoạt
động của cá nhân, nhóm xã hội hướng tới
các mục tiêu phát triển (do tri thức dẫn
đường) cá nhân và cộng đồng xã hội trong
các điều kiện lịch sử - xã hội nhất định (3).
Theo cách hiểu này thì thái độ bao gồm hai
nội dung đó là nhận thức (đỉnh cao là tư
duy) và cảm xúc.
Thái độ = Nhận thức (tư duy) + Cảm xúc
Cảm xúc cung cấp nguồn năng lượng
cho hành động, cảm xúc tạo hứng thú say
mê (hoặc ngược lại chán nản, buồn bã...)
luôn luôn là nguồn cảm hứng hoặc ngược
lại cho hành động, không có cảm xúc hành
động thiếu động lực.
Tư duy thực hiện chức năng tìm
kiếm, lựa chọn các cách thực hiện hành
động, cùng với tưởng tượng xây dựng
những kịch bản, chiến lược, lộ trình khác
nhau để thực hiện hành động sao cho hợp
lý đỡ tốn năng lượng cơ bắp và tinh thần
mà hiệu quả cao, hạn chế tối đa nguồn lực
mà vẫn có kết quả tốt.
Tri thức (knowledge) xác định mục
tiêu phải đạt được, các đích phải đến của
hành động; không có tri thức, người ta
hành động không có phương hướng, không
có đích, chẳng khác nào con thuyền trôi vô
định trên đại dương mênh mông; không có
tri thức hành động của con người chẳng
khác nào con ngựa chạy không cương,
không có người điều khiển. Tri thức xác
định phương hướng, xác định mục tiêu và
trả lời cho câu hỏi vì sao phải hành động
như vậy? Hành động như vậy để đạt được
cái gì? Sản phẩm hoạt động là gì?
- Thành phần thứ ba của năng lực là kỹ
năng (skills). Kỹ năng là hệ thống các thao
tác hành động, hành vi được tư duy và cảm
xúc tích cực lựa chọn từ những tri thức,
vốn sống kinh nghiệm, thái độ của cá nhân
trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
đảm bảo hoạt động có kết quả theo hướng
tích cực. Kỹ năng là sản phẩm tích hợp
đỉnh cao biểu hiện của năng lực. Tóm lại,
năng lực người nói chung và năng lực nghề
nghiệp nói riêng là một cấu trúc tâm lý
động bao gồm tri thức, thái độ và kỹ năng,
các thành phần này được phối hợp hoạt
động linh hoạt, cơ động và rất nhạy bén –
Nhiều lúc con người hành động như là thói
quen (habit) hành động do được luyện tập
lâu dài, bền vững.
Năng lực = Tri thức (kiến thức) + Thái
độ (tư duy và cảm xúc) + Kỹ năng (4)
Năng lực tuyệt đối không phải là sự
cộng cơ học các thành phần tri thức, thái
độ và kỹ năng, mà là sự tích hợp, phối hợp
hài hòa theo quy luật riêng có sự điều
chỉnh của ý thức, trực giác.
III. SỰ THỐNG NHẤT BIỆN CHỨNG
GIỮA DẠY CHỮ, DẠY NGƯỜI, DẠY
NGHỀ TRONG NĂNG LỰC
Hiện nay hoạt động dạy, lấy người học
làm trung tâm, đặc biệt là bậc phổ thông
tác động vào con người, đầu tiên là cung
cấp tri thức, kiến thức khoa học, coi trọng
dạy kiến thức. Trước đây, đã một thời gian
dài nhà trường theo quan điểm nho giáo
“Tiên học lễ, hậu học văn” quan tâm đến
dạy làm người trước rồi đến dạy chữ (dạy
tri thức khoa học) sau. Do mục tiêu đào tạo
của các trường đại học, cao đẳng và trung
cấp chuyên nghiệp khác nhau, nên việc
tuyển sinh vào hệ thống các trường này lại
quan tâm đầu tiên là thái độ của người học.
Thí sinh, đặc biệt phải có thái độ tích cực
đối với ngành, nghề mình chọn, phải thực
sự hứng thú, yêu thích ngành nghề mình
học thì mới có kết quả học tập tốt, theo đó
mới khơi dạy được những tiềm năng, lợi
26
thế của mình cho hoạt động sáng tạo trong
hoạt động nghề nghiệp và do vậy, các
trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp chỉ tuyển thí sinh có nguyện vọng
xin dự thi vào trường (chủ yếu dành cho
nguyện vọng 1).
Việc “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề”
đang tồn tại ở các loại trường học, bậc học
ở nước ta tùy theo mục tiêu đào tạo của bậc
học, cấp học, loại hình trường học mà ưu
thế dạy chữ, dạy người, dạy nghề khác
nhau. Ví dụ, bậc học giáo dục mầm non:
Chăm sóc – giáo dục trẻ từ 3 tháng đến 6
tuổi. Mục tiêu khái quát nhất là dạy trẻ làm
người, hình thành ở trẻ những tố chất nền
tảng của con người, hình thành những yếu
tố đầu tiên của nhân cách, hình thành
những năng lực người. Quá trình tổ chức
các hoạt động giáo dục ở trường mầm non
hướng đến hình thành những tố chất nền
tảng năng lực người cho trẻ như: Năng lực
quan sát, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng
lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp xã hội
(năng lực tương tác, năng lực độc lập, năng
lực tự chủ, năng lực tự khẳng định mình...),
năng lực tư duy, năng lực sáng tạo, năng
lực nhận thức, năng lực tính toán, năng lực
tự bảo vệ bản thân...
Trong khi đó, bậc học đại học, cao
đẳng và trung cấp chuyên nghiệp thì lại
quan tâm đến dạy chữ và dạy nghề, có
những trình độ, những lúc và tùy theo
ngành nghề mà dạy nghề được coi trọng
hơn tri thức khoa học.
Việc coi trọng khâu nào trong quá trình
hình thành, phát triển năng lực người, năng
lực nghề nói cách khác là quan tâm đến
lĩnh vực nào “Dạy người, dạy chữ, dạy
nghề” phụ thuộc vào mục tiêu đào tạo của
bậc học, trình độ học vấn, loại hình đào
tạo. Song, dù ở loại hình đào tạo nào, bậc
học nào xét về toàn diện và khái quát thì
giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế
phải hướng vào phát triển nhân cách toàn
diện cho người học, trong đó phải hướng
vào phát triển năng lực người học để đáp
ứng được các yêu cầu cao về nguồn nhân
lực cho sự phát triển xã hội. Năng lực theo
cách nhìn của tâm lý học đã hội tụ cả 3 nội
dung:
Dạy người - để có năng lực, hình thành
nhân cách.
Dạy chữ - để có kiến thức, thái độ (tư
duy, cảm xúc).
Dạy nghề - Năng lực nghề, kỹ năng
nghề, cảm xúc tích cực với nghề.
Tóm lại, theo cách tiếp cận trên, năng
lực người, năng lực nghề mà giáo dục và
đào tạo hướng đích là sự thống nhất biện
chứng hài hòa giữa “Dạy người, dạy chữ
và dạy nghề” có thể ưu thế trội của từng
nội dung dạy chữ, dạy người, dạy nghề ở
các bậc học, loại hình đào tạo khác nhau.
Ví dụ, bậc học mầm non ưu thế trội là dạy
trẻ làm người (dạy người); các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp lại
quan tâm nhiều hơn đến dạy nghề, dạy chữ.
Các trường học phổ thông lại quan tâm đến
sự hài hòa cân đối giữa dạy kiến thức (dạy
chữ) và dạy làm người (dạy người).
IV. BẬC HỌC GIÁO DỤC MẦM NON
VÀ SỰ HÌNH THÀNH NHỮNG TỐ
CHẤT, NỀN TẢNG CỦA NĂNG LỰC
NGƯỜI TỪ QUÁ TRÌNH CHĂM SÓC
GIÁO DỤC TRẺ
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận về các
tố chất nền tảng hình thành năng lực người
cho trẻ em. Ở bài viết này, xin trình bày ba
cách tiếp cận hình thành phát triển các tố
chất nền tảng, yếu tố đầu tiên cơ bản cho
năng lực người.
27
1. Cách tiếp cận của người thành
công và hạnh phúc của GS.M.Bernard
nhà tâm lý học, giáo dục học Úc
Bằng quan sát khoa học và khảo sát
những người thành công trong sự nghiệp
và hạnh phúc trong gia đình và các quan hệ
xã hội. Với 15 năm nghiên cứu và tiến
hành thử nghiệm đã xây dựng thành công
chương trình giáo dục You can do it.
Chương trình hướng vào xây dựng 5 tố
chất nền tảng: Tự tin, kiên trì, tổ chức, hòa
nhập, thích ứng.
1.1. Tự tin: Phần lớn người thành công
và nổi tiếng họ có đức tính tự tin, đặc biệt
họ có niềm tin tuyệt đối vào bản thân mình.
Bằng trải nghiệm, ai cũng đã từng đi thi
hoặc đứng trước đám đông trả lời những
câu hỏi hoặc thuyết trình chính kiến riêng
của mình, đều nhận ra rằng phần đông
người nào tự tin người đó sẽ có kết quả tốt.
Điều quan trọng ở những người có tính
tự tin là họ có thói quen tư duy tích cực là
điểm tựa cho sự tự tin đó là: Biết tự lập,
luôn tin là “Tôi có thể”, biết chấp nhận
chính mình, biết chấp nhận rủi ro.
1.2. Kiên trì: Tất cả các sự vật, hiện
tượng trong hiện thực khách quan đều hình
thành, phát triển vận động có tính quy luật
trong một quá trình xác định, nghĩa là phải
có thời gian, không có một sự vật, hiện
tượng tự nhiên, xã hội, con người nào đột
ngột sinh ra, bất ngờ xuất hiện hoặc mất đi,
chúng đều diễn ra trong một quá trình. Do
vậy nắm được quy luật này, con người phải
biết kiên trì chờ đợi ở một thời điểm nào
đó trong một quá trình “Vì sự nghiệp 10
năm thì trồng cây. Vì sự nghiệp 100 năm
phải trồng người”.
Không thể nôn nóng “Dục tốc bất đạt”,
kiên trì việc gì cũng đạt. Ngay như bát
nước đun sôi muốn uống thì phải chờ đợi
thì mới an toàn.
Đằng sau tính kiên trì là những thói
quen tư duy được hình thành đó là: Luôn
tin là “Tôi có thể”, nỗ lực phấn đấu, dám
làm việc khó, biết thiết lập mục tiêu, có kế
hoạch quản lý thời gian.
1.3. Tổ chức: Các sự vật, hiện tượng
khách quan được hình thành, phát triển đều
theo một quy trình, một trật tự nhất định.
Ví dụ, đứa trẻ sau khi sinh thì bú sữa mẹ,
sau 4 tháng thì ăn dặm thêm (ngoài sữa
mẹ), dần dần trẻ ăn cháo, cơm khi đã có
răng hàm để nhai...rồi lớn dần lớn theo các
độ tuổi...Ai có được cách nhận thức này chỉ
đạo hành vi, hành động của mình thì góp
phần thành công trong hoạt động và hạnh
phúc trong cuộc sống. Phương pháp luận
nhận thức ở tính tổ chức là hình thành thói
quen tư duy: Biết thiết lập mục tiêu cho
hành động, hoạt động của mình (gần, xa,
ngắn hạn, trung hạn, dài hạn sau này); có
kế hoạch quản lý thời gian, phân phối thời
gian hợp lý cho các công việc.
1.4. Khả năng hòa nhập: Con người
xã hội tồn tại vận động và phát triển trong
quan hệ với mọi người để được thỏa mãn
các nhu cầu cơ bản. Bản thân mỗi người là
sản phẩm giao tiếp xã hội, thông qua tình
yêu thương của cha mẹ ta, ta lớn lên phát
triển là nhờ sự hợp tác chăm sóc nuôi
dưỡng giáo dục của mọi người. Hòa nhập
để tồn tại và phát triển; những thói quen tư
duy kích thích phát triển khả năng hòa
nhập là: Có trách nhiệm xã hội; Luôn tuân
thủ các quy định, quy tắc; Suy nghĩ hậu
quả trước khi nói và hành động; Biết thông
cảm (đồng cảm) với người khác.
1.5. Khả năng thích ứng: Tự nhiên, xã
hội và bản thân mỗi người luôn ở trạng thái
vận động không ngừng để tồn tại và phát
triển, nghĩa là sự thay đổi, đổi mới liên tục
diễn ra hàng giờ, hàng ngày. Do vậy, con
người phải thích ứng (thích nghi) mới tồn
28
tại và phát triển được, đặc biệt trong nền
kinh tế tri thức thời đại bùng nổ thông tin
(công nghệ thông tin phát triển). Muốn có
khả năng thích ứng trẻ phải được nhận
thức, được trải nghiệm qua hành động loại
bỏ, ứng phó một cách tích cực với những:
Lo lắng, thất vọng (bất an), chần chừ (do
dự), mất tập trung – làm phiền người khác,
tức giận – không cư xử đúng mức.
Năm tố chất nền tảng trên phải được
trẻ nhận thức và trải nghiệm bằng hành
động thông qua các hoạt động cơ bản ở
trường mầm non, được tích hợp vào các
nội dung giáo dục phát triển thể chất, ngôn
ngữ, nhận thức, thẩm mỹ và tình cảm – xã
hội ở mọi lúc mọi nơi.
Từ năm tố chất trên các năng lực:
Năng lực quan sát (biết kiên trì, tự tin),
năng lực nhận thức, năng lực giao tiếp xã
hội, năng lực tự chủ, năng lực tự khẳng
định mình, năng lực sáng tạo, năng lực xác
định mục đích, mục tiêu, năng lực phân
phối thời gian (xây dựng chương trình, kế
hoạch...)...được hình thành ở trẻ.
2. Cách tiếp cận giáo dục các giá trị sống
Theo Diane Tillman và Diana Hsu
khoảng 80% nhận thức về cuộc sống, về
mọi vật xung quanh của con người được
hình thành trước 8 tuổi. Nhận thức về giá
trị sống để hoàn thiện nhận thức cho trẻ từ
0 đến 7 tuổi theo các nhà giáo dục và tâm
lý là rất cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
Theo các nhà tâm lý học, sự tiếp thu
của trẻ ở độ tuổi từ 3 đến 7 tuổi phải được
diễn ra thông qua quá trình tự khám phá,
suy ngẫm và trải nghiệm. Với ý nghĩa đó
những hoạt động giá trị cho trẻ từ 3 đến 7
tuổi cần có sự hỗ trợ, hướng dẫn của cha
mẹ và cô giáo mầm non. Theo các tác giả
(5) mặc dù các bài học được thiết kế rõ
ràng và được chỉ dẫn rất cụ thể, song điều
quan trọng là phải tạo lập được bầu không
khí học tập an toàn cho trẻ.
Chương trình giáo dục những giá trị
sống (Living Values Education Program –
LVEP) đưa ra một loạt các hoạt động mang
tính trải nghiệm và các phương pháp thực
hành dành cho giáo viên mầm non và
người hướng dẫn, nhằm giúp trẻ có điều
kiện khám phá và phát triển 12 giá trị căn
bản của cá nhân và xã hội đó là: Hợp tác,
tự do, hạnh phúc, trung thực, khiêm tốn,
yêu thương, hòa bình, tôn trọng, trách
nhiệm, giản dị, khoan dung và đoàn kết.
Riêng trẻ em lứa tuổi mầm non từ 3 tuổi
đến 7 tuổi các tác giả chương trình giáo
dục những giá trị sống khuyến cáo, trẻ chỉ
cần khám phá và trải nghiệm 11 giá trị đó
là: Hòa bình, tôn trọng, yêu thương,
trách nhiệm, hạnh phúc, khoan dung,
hợp tác, trung thực, khiêm tốn, giản dị
và đoàn kết.
Đó là các giá trị như là các kiến thức
cần cho năng lực người và năng lực nghề,
điểm tựa nhân văn quan trọng để năng lực
người, năng lực nghề hướng đến tạo ra các
sản phẩm vật chất tinh thần phục vụ cho
con người.
3. Cách tiếp cận hình thành những
thói quen hành vi xã hội
Xuất phát từ cơ sở lý luận con người
có hai bản tính, bản tính tự nhiên và bản
tính xã hội. Bản tính tự nhiên do cấu tạo và
hoạt động của não, tế bào thần kinh, các
tuyến nội tiết...quy định. Ví dụ: Bản tính tự
nhiên của con người thích chơi, không
thích lao động, thích được khen hơn bị chê,
thích ăn ngon mặc đẹp hơn bị đói khổ, biết
nói dối để tồn tại, phát triển khi có cơ
hội...Bản tính xã hội do rèn luyện hàng
ngày, giáo dục thường xuyên mới có được.
Bản tính xã hội – về bản chất là các thói
quen hành vi xã hội được rèn luyện bằng
hành động trải nghiệm hàng ngày trong tất
29
cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Thói
quen hành vi xã hội được hình thành bằng
hai con đường đó là bắt chước vô thức
(tuân theo vô điều kiện) hoặc bắt chước có
ý thức (khám phá, suy ngẫm và hành động
trải nghiệm tập quen). Thói quen hành vi
xã hội còn được gọi là bản tính thứ hai của
con người (phần lớn bản tính xã hội của
con người được hình thành từ đây).(6)
Với cách tiếp cận này trong quá trình
chăm sóc giáo dục trẻ ở các trường mầm
non, cần giáo dục trẻ để hình thành các thói
quen hành vi xã hội trong các lĩnh vực đời
s