Nền tảng lý thuyết trong công tác xã hội nhóm
Theo Parson nhóm là hệ thống xã hộivới những thành viên lệ thuộc hỗ tương cố gắng duy trì trật tự và sự cân bằngnhư một thể thống nhất.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nền tảng lý thuyết trong công tác xã hội nhóm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN II
NỀN TẢNG LÝ THUYẾT TRONG
CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
BÀI 4
CÁC THUYẾT ẢNH HƯỞNG ĐẾN
PHƯƠNG PHÁP CTXH NHÓM
4.1. Thuyết hệ thống
Theo Parson nhóm là hệ thống xã hội với
những thành viên lệ thuộc hỗ tương cố
gắng duy trì trật tự và sự cân bằng như
một thể thống nhất.
Nhóm có 4 nhiệm vụ chính:
Hội nhập – đảm bảo rằng các nhóm
viên hoà hợp với nhau.
Thích nghi – đảm bảo rằng nhóm thay
đổi để ứng phó với nhu cầu đòi hỏi của
môi trường.
Duy trì – đảm bảo rằng nhóm xác định
và duy trì được mục đích cơ bản, bản
sắc, và phương cách của nó.
Đạt mục tiêu – đảm bảo rằng nhóm
theo đuổi và hoàn thành trách nhiệm.
Nhóm phải hoàn tất 4 công việc này
để duy trì được sự quân bình, đây là
công việc dành cho cả tác viên và
nhóm viên của nhóm.
Theo Robert Bales, thì nhóm phải giải
quyết 2 vấn đề để tự bảo tồn, đó là
vấn đề liên quan tới công việc và vấn
đề liên quan tới cảm xúc tức bầu
không khí nhóm.
Parson nhấn mạnh tới sự hài hoà và quân
bình, trong khi đó Bales nhấn mạnh tới sự
căng thẳng và xung đột.
Nhóm có khuynh hướng dao động giữa sự
thích nghi với môi trường bên ngoài và
quan tâm tới sự hội nhập bên trong.
Bales gọi đây là sự quân bình năng động.
Nghiên cứu sự quân bình năng động
này và thấy rằng để giải quyết vấn đề
liên quan tới công việc các nhóm viên
cho ý kiến, cung cấp thông tin, yêu
cầu các đề nghị hoặc đưa ra các đề
nghị.
Để giải quyết vấn đề về cảm xúc các
nhóm viên bày tỏ sự đồng ý, không đồng
ý, bày tỏ sự căng thẳng hay giải toả sự
căng thẳng, bày tỏ sự đoàn kết hay xung
đột.
Qua mối tương tác này các thành viên
nhóm giải quyết vấn đề trao đổi, lượng
giá, kiểm soát, lấy quyết định, giảm căng
thẳng và hội nhập.
Có thể rút ra từ các quan điểm khác nhau
về thuyết hệ thống những khía cạnh đáng
quan tâm đối với tác viên nhóm như sau:
- Sự hiện diện của nhóm như một tổng thể
xuất phát từ mối tương tác giữa các cá
nhân trong nhóm.
- Trong nhóm luôn tồn tại sức ép mãnh liệt
của nhóm lên trên hành vi của cá nhân
- Khi nhóm giải quyết những mâu thuẫn là
sự đấu tranh để tồn tại
- Nhóm phải nối kết với môi trường bên
ngoài và quan tâm tới sự hội nhập bên
trong.
- Nhóm thường xuyên ở trong tình trạng
trưởng thành, phát triển, thay đổi
4.2. Thuyết tâm lý năng động
Theo lý thuyết này nhóm viên thể hiện
những xung đột không giải quyết được từ
kinh nghiệm sống từ thời bé.
Bằng nhiều cách nhóm tái hiện lại tình
huống gia đình, ví dụ như: người trưởng
nhóm như hình ảnh của người cha có toàn
quyền trên các nhóm viên.
Nhóm viên hình thành những phản ứng
chuyển giao cho người trưởng nhóm và
cho nhau trên cơ sở những kinh nghiệm
sống thuở ban đầu của họ.
Như vậy mối tương tác diễn ra trong nhóm
phản ảnh cơ cấu nhân cách và cơ chế tự
vệ mà nhóm viên bắt đầu phát triển từ thời
thơ ấu.
Tác viên sử dụng sự giao dịch này
để giúp cho nhóm viên giải quyết các
xung đột chưa giải quyết của họ
bằng cách thăm dò mẫu hành vi
trong quá khứ và nối kết với những
hành vi hiện tại.
Ví dụ:
Tác viên có thể diễn dịch hành vi của
2 nhóm viên đang tranh giành sự
quan tâm của trưởng nhóm như sự
tranh chấp không giải quyết được của
2 anh em.
Khi diễn dịch của tác viên đúng lúc thì
các nhóm viên hiểu được hành vi của
riêng họ.
Theo thuyết tâm lý năng động thì sự
hiểu biết này là thành tố cần thiết
trong việc điều chỉnh và thay đổi hành
vi bên trong và bên ngoài nhóm.
4.3. Thuyết học hỏi
Điều cơ bản của lý thuyết này là nhấn
mạnh đến hành vi cá nhân hơn là hành vi
nhóm.
Theo lý thuyết này, hành vi của nhóm có
thể được giải thích bằng một trong 3
phương pháp học tập.
Thứ nhất: theo lối tiếp cận cổ điển, hành vi
có liên quan tới sự kích thích phản xạ.
- Ví dụ: một thành viên nhóm tình cờ nghe
hai thành viên khác to nhỏ nói xấu mình,
lần khác lại thấy hai thành viên đó nói xấu
về một thành viên khác trong nhóm
Sau một vài lần như vậy chỉ cần thấy hai
thành viên đó ngồi gần nói chuyện to nhỏ
với nhau, mặc dù không nghe được câu
chuyên nhưng thành viên nhóm sẽ nghĩ
ngay đến việc hai thành viên kia đang nói
xấu mình hoặc một ai đó
Phương pháp thứ hai thông thường hơn
gọi là điều kiện hoạt động.
- Hành vi của nhóm viên và tác viên được
điều hành bởi kết quả hành động của họ.
- Nếu một nhóm viên có một hành vi nào đó
và nhóm viên B đáp ứng một cách tích
cực thì nhóm viên A có thể sẽ tiếp tục
hành vi đó.
- Tương tự nếu tác viên nhận được
phản hồi tiêu cực từ nhóm viên về
một hành vi nào đó thì tác viên có thể
sẽ không cư xử như thế trong tương
lai.
Mô hình thứ ba là lý thuyết học hỏi xã hội.
- Nếu nhóm viên và tác viên chờ đợi điều
kiện hoạt động hay cổ điển diễn ra thì
những hành vi trong nhóm được học hỏi
rất chậm chạp.
- Bandura cho rằng hầu hết việc học hỏi
diễn ra qua sự quan sát và ca ngợi hoặc
củng cố do tác động lây lan hoặc do trừng
phạt.
- Ví dụ, khi một nhóm viên được khen ngợi
vì một hành vi nào đó thì tác viên và nhóm
viên khác sẽ tái tạo hành vi đó sau này hy
vọng là sẽ nhận được sự khen thưởng
tương tự.
- Khi một nhóm viên thể hiện một hành vi
nào đó mà xã hội không quan tâm hay
trừng phạt thì những nhóm viên khác sẽ
học hỏi là nên không cư xử như thế vì
hành vi đó đem lại kết quả tiêu cực.
4.4. Thuyết hiện trường
Kurt Lewin đã thực hiện nhiều cuộc thí
nghiệm về sức ép để giải thích hành vi
trong nhóm nhỏ.
Theo Lewin, nhóm liên tục thay đổi để ứng
phó với tình huống xã hội dù rằng có
nhiều khi nó ở trạng thái gần như đứng
yên.
Lewin đưa ra vài khái niệm để hiểu về sức
mạnh của nhóm đó là:
Vai trò: vị trí, quyền và bổn phận của
nhóm viên
Qui chuẩn: những nguyên tắc điều
hành/chi phối hành vi của nhóm viên
Quyền lực: khả năng nhóm viên ảnh
hưởng lẫn nhau
Sự liên kết: toàn bộ những lực hấp dẫn
nhau và sự lôi cuốn lẫn nhau giữa các
thành viên trong nhóm cảm nhận về nhau
và về nhóm.
Sự nhất trí: Mức độ đồng ý về mục tiêu
và các hiện tượng khác trong nhóm
Thuyết hiện trường của Lewin
cho rằng người ta sẽ không thay
đổi hành vi của mình cho tới khi
nào họ thấy rõ hành vi của mình
như người khác thấy.
4.5. Thuyết tương tác xã hội
Thuyết này nhấn mạnh đến hành vi cá
nhân của các thành viên trong nhóm.
Phát xuất từ những học thuyết trò chơi,
phân tích kinh tế, tâm lý động vật, các nhà
lý thuyết trao đổi xã hội cho rằng khi người
ta tương tác trong nhóm, mỗi người đều
cố gắng hành xử để gia tăng tối đa sự
khen thưởng và giảm thiểu tối đa sự trừng
phạt.
Các thành viên trong nhóm bắt đầu
tương tác vì những sự trao đổi xã hội
này đem lại cho họ điều gì đó có giá
trị, như sự tán thành chẳng hạn.
Theo các nhà lý thuyết trao đổi xã hội
thì thường người ta không thể nhận
được gì nếu người ta không cho, có
một sự trao đổi ngầm trong mọi mối
quan hệ giữa con người.
Theo thuyết tương tác xã hội, hành vi
nhóm được phân tích bằng cách
quan sát cách mà những cá nhân
thành viên tìm kiếm sự khen thưởng
trong khi ứng phó với sự tương tác
diễn ra trong nhóm.
Đối với một cá nhân trong một nhóm,
quyết định diễn tả một hành vi dựa
vào sự cân nhắc, so sánh giữa sự
khen thưởng và trừng phạt có thể có
từ hành vi đó.
Các thành viên trong nhóm cư xử để gia
tăng những hiệu quả tích cực và làm giảm
những kết quả tiêu cực.
Lý thuyết trao đổi xã hội cũng nhấn mạnh
đến cái cách mà các thành viên nhóm ảnh
hưởng lẫn nhau trong các tương tác xã
hội.
Lý thuyết tương tác xã hội bị phê bình là
máy móc vì nó giả định người ta luôn luôn
là sinh vật có lý trí hành động theo sự
phân tích về thưởng phạt.
Cái nhìn của các thành viên nhóm chịu
ảnh hưởng bởi tiến trình nhận thức như ý
định và sự mong đợi.