Tóm tắt
Tư tưởng về lực lượng cách mạng là một bộ phận và là một bộ phận hợp thành
quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng, xuyên suốt cả
trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về lực lượng cách mạng vào điều kiện đặc thù của thực tiễn Việt
Nam. Bài viết tập trung đi sâu nghiên cứu một số nét độc đáo, sáng tạo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|268
NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG
TS. Nguyễn Khắc Trai*
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
Tóm tắt
Tư tưởng về lực lượng cách mạng là một bộ phận và là một bộ phận hợp thành
quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng, xuyên suốt cả
trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đó là sự vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về lực lượng cách mạng vào điều kiện đặc thù của thực tiễn Việt
Nam. Bài viết tập trung đi sâu nghiên cứu một số nét độc đáo, sáng tạo trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng.
Từ khóa: Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng, nét độc đáo.
I. MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ thiên tài, vĩ đại của
dân tộc Việt Nam. Ngƣời đi xa, nhƣng Ngƣời đã để lại cho dân tộc, cho cách mạng
nhiều tƣ tƣởng lớn và có ý nghĩa sâu sắc. Một trong những đóng góp to lớn của
Ngƣời cho sự thành công của cách mạng nƣớc ta, đó là tƣ tƣởng về lực lƣợng cách
mạng. Tƣ tƣởng của Ngƣời về lực lƣợng cách mạng trở thành nét độc đáo, trên cơ sở
kế thừa có trọn lọc lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản,
truyền thống sử dụng lực lƣợng của dân tộc, nhƣng phù hợp với đặc điểm và đáp ứng
kịp thời yêu cầu thực tiễn cách mạng nƣớc ta.
II. NỘI DUNG
Lực lƣợng là vấn đề chiến lƣợc của cách mạng, là một trong những yếu tố quan
trọng hàng đầu cấu thành đƣờng lối cách mạng của Đảng. Lực lƣợng là yếu tố rất quan
trọng, quyết định đến việc thành bại của sự nghiệp cách mạng. Khi bàn về lực lƣợng
cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: Lực lƣợng cách mạng là một tổng
thể bao gồm nhiều yếu tố hợp thành. Tuy nhiên, trong phạm vị bài viết sẽ tập trung
làm sáng tỏ nét độc đáo trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh những vấn đề cơ bản của lực
lƣợng cách mạng trong Cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
269|
Thứ nhất, Hồ Chí Minh luôn xác định lực lượng quan trọng nhất của cách
mạng đó là giai cấp công nhân.
Trƣớc, trong và sau Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930, Hồ Chí Minh đều
nhất quán quan điểm rằng: Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam
theo chủ nghĩa Mác - Lênin và đƣờng lối của Quốc tế Cộng sản là lực lƣợng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Càng về sau, nhận thức này của Hồ Chí Minh càng đầy đủ và
rõ ràng hơn. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
khẳng định, cách mạng trƣớc hết cần có Đảng, để trong thì vận động và tổ chức quần
chúng, ngoài thì liên hiệp với vô sản và giai cấp bị áp bức mọi nơi, Đảng có vững
phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng nhƣ ngƣời không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ Nam. Chủ nghĩa của Đảng Cộng sản chỉ có thể là chủ
nghĩa Mác - Lênin; bởi theo Ngƣời, thì bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều
nhƣng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin.
Trong Sách lược vắn tắt, tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân đƣợc thể hiện rõ nét: "Đảng là đội tiền phong của giai cấp,.. phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng"1. Khi đề cập vấn đề này, trong Điều lệ
tóm tắt của Đảng đã nói rõ hơn: Đảng Cộng sản Việt Nam đƣợc tổ chức ra để lãnh
đạo quần chúng lao khổ làm cách mạng, để tiêu trừ bọn tƣ bản đế quốc thực hiện xã
hội cộng sản. Ngƣời vào Đảng phải theo chủ nghĩa cộng sản, chƣơng trình của Đảng
và Quốc tế Cộng sản. Đây chính là những khẳng định rứt khoát và rõ ràng về vai trò
của lãnh đạo Đảng Cộng sản, Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đối với cách
mạng Việt Nam. Mặc dù, sau tháng 10/1930, giữa Hồ Chí Minh và Quốc tế Cộng sản
có những bất đồng về một số vấn đề chiến lƣợc cách mạng Việt Nam. Nhƣng trong
các báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, Hồ Chí Minh
luôn luôn khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam là của giai cấp công nhân
thông qua Đảng của mình. Điều đó thể hiện rõ nhất trong báo cáo của Việt Nam gửi
Quốc tế Cộng sản ngày 12/7/1940, sau khi điểm lại một số hoạt động của các đảng
phái ở Việt Nam nhƣ: Đảng Lập hiến, Tân Việt Đảng, Quốc dân Đảng. Hồ Chí Minh
đã khẳng định: "Tóm lại, chúng tôi có thể nói rằng, ở Đông Dương chỉ có Đảng Cộng
sản là một chính đảng chân chính, có tính chất toàn quốc và có quần chúng"2. Trong
Lời kêu gọi gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và anh chị em bị
áp bức, bóc lột sau khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh đã viết: "Đảng Cộng sản Việt Nam
1
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.3.
2
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.200.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|270
đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản
lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị
áp bức, bóc lột chúng ta. Từ nay, anh chị em chúng ta cần phải ra nhập Đảng, ủng hộ
Đảng và đi theo Đảng"3.
Nhƣ vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là của giai cấp công
nhân, là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nƣớc. Đây là một quan điểm hết sức đúng đắn và phù hợp với đặc điểm của
nƣớc ta, một đất nƣớc có lịch sử và văn hóa lâu đời, phong trào yêu nƣớc phát triển
mạnh mẽ, ra đời trƣớc phong trào công nhân, phong trào yêu nƣớc đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin trƣớc phong trào công nhân. Quan điểm trên cho phép Đảng đƣợc tăng
cƣờng lực lƣợng và sức chiến đấu từ nhiều đối tƣợng trong xã hội, miễn là họ thừa
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tự nguyện đấu tranh trong hàng ngũ của Đảng, đấu
tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan điểm trên đã vƣợt lên quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là Đảng là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân. Tƣ tƣởng độc đáo của Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của
Đảng, thúc đẩy nhanh chóng việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm về số
lƣợng và chất lƣợng, bảo đảm Đảng đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành
thắng lợi.
Thứ hai, Hồ Chí Minh xác định động lực của cách mạng Việt Nam là giai cấp
công nhân, nông dân, trí thức.
Từ sự phân tích đặc điểm xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh trong mọi giai đoạn
cách mạng đều xác định “công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Ngƣời đã viết: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức
và trung nông về phía giai cấp vô sản”4. Theo Ngƣời, “Tính chất cách mạng của ta là
cách mạng dân chủ mới, cho nên động lực cách mạng gồm có những giai cấp: công
nhân, nông dân, tiểu tư sản”5. Ngƣời nhấn mạnh: “Tuyên ngôn của Đảng nói: “Đảng
Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nƣớc
nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất” và “lao động trí óc cần được khuyến khích, giúp
đỡ, phát triển tài năng”6.
Xây dựng khối liên minh công, nông, trí thức làm lực lƣợng chủ lực cách mạng
của Hồ Chí Minh là kế thừa và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về
3
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.22.
4
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.4.
5
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.255.
6
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.54.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
271|
xây dựng lực lƣợng cách mạng. C. Mác và Ph. Ăngghen từ lý luận và thực tiễn của
phong trào công nhân châu Âu giữa thế kỷ XIX, trực tiếp nhất là cách mạng tƣ sản Đức
năm 1848 và Công xã Pari năm 1871 đã khẳng định: Cuộc cách mạng vô sản hay phong
trào công nhân không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tƣ bản nếu
không có khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó giai cấp
công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Trong Cách mạng tháng Mƣời Nga, phát triển lý luận của
C. Mác, Ph. Ăngghen về tổ chức liên minh công - nông khi nƣớc Nga lúc đó đang tham gia
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, V.I. Lênin đã nói đến liên minh giữa giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân với binh lính, vận động thành lập các xô viết công nhân, nông dân và
binh lính
Xây dựng khối liên minh công, nông, trí thức làm lực lƣợng chủ lực cách mạng
của Hồ Chí Minh là kế thừa và phát triển sáng tạo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản.
Trong thƣ của Ban Phƣơng Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ngày 13/11/1930 đã
chỉ rõ: Động lực của cách mạng Đông Dƣơng là giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân. Đồng thời, trong nhiều văn kiện khác, Quốc tế Cộng sản luôn cho rằng: Giai cấp
công nhân và nông dân là động lực chính của cách mạng là vô sản. Hai giai cấp này
cũng đƣợc Quốc tế Cộng sản đánh giá là lực lƣợng chính của cách mạng Đông Dƣơng.
Thƣ của Quốc tế Cộng sản gửi Đảng Cộng sản Đông Dƣơng ngày 03/8/1934 có viết:
Động lực chủ yếu của cách mạng là giai cấp vô sản và giai cấp nông nhân. Trong tài
liệu đƣa ra để thảo luận tại phiên họp của Hội đồng Ban Phƣơng Đông ngày 18/10/1929
có đoạn viết: Những ngƣời cộng sản phải luôn chú ý rằng, phong trào phản đế có đƣợc
sức mạnh thực sự, trở thành phong trào cách mạng thực sự chỉ khi nào ngày càng có
đông đảo quần chúng công nông đƣợc lôi cuốn vào phong trào ấy và chỉ khi nào có sự
tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản và của Đảng Cộng sản trong phong trào
ấy. Quốc tế Cộng sản đòi hỏi: "Những người cộng sản phải hướng sự chú ý chủ yếu
của mình vào việc lôi kéo ngày càng động đảo quần chúng công nông vào phong trào
phản đế, phải ra sức phát triển theo hướng đó"7. Nhƣ vây, lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin và sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản chƣa đề cập đến sự liên minh giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức, mà phần lớn đề cập đến liên minh công nông.
Theo Hồ Chí Minh xây dựng khối liên minh công, nông, trí thức là sự phù hợp
với thực tiễn cách mạng nƣớc ta. Dân tộc Việt Nam luôn coi trọng trí thức, trí thức là
“vốn liếng quý báu của dân tộc”, là sự tiếp nối truyền thống của dân tộc Việt Nam,
“hiền tài là nguyên khí quốc gia”, coi trọng sức mạnh vô tận của trí tuệ con ngƣời và
7
Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.601.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|272
sức mạnh lớn lao của một dân tộc giàu tri thức. Thực tế lịch sử chứng minh, khi thực
dân Pháp xâm lƣợc Việt Nam, trí thức là tầng lớp có số lƣợng khiêm tốn trong xã hội,
nhƣng luôn đi đầu, là ngòi nổ trong các phong trào đấu tranh chống Pháp, bảo vệ độc
lập, hoặc đòi lại quyền dân tộc, tự chủ. Trí thức cũng là những ngƣời đi tiên phong
trong việc tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, đón nhận những luồng tƣ
tƣởng mới, tiến bộ từ bên ngoài, thực hiện tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân.
Mặc dù, trí thức đa số xuất thân từ các thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tƣ
sản. Nhƣng Hồ Chí Minh đã coi trí thức cùng với công nhân và nông dân là chủ lực của
cách mạng, vì trí thức Việt Nam đều bị đế quốc áp bức. “Tất cả những ngƣời trí thức
nào có đôi chút tiếng tăm đều bị đƣa đi đày. Tất cả các trƣờng tƣ thục đều bị đóng cửa
và tất cả các sách báo nƣớc ngoài đều bị cấm”. Ngƣời chỉ ra hai yếu tố tích cực của trí
thức Việt Nam: “Có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng” và nhận xét: “trí thức có học
thức, dễ có cảm giác chính trị. Họ không trực tiếp bóc lột lao động. Vì vậy, họ dễ tiếp
thu sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công nông”8.
Thứ ba, Hồ Chí Minh luôn nhận thức đúng và đánh giá cao khả năng tham gia
của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.
Đây là một nét độc đáo, đặc sắc và sáng tạo trong tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về
lực lƣợng cách mạng ở Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ dựa trên sự phân tích về
quan hệ sản xuất, mà còn rất chú trọng xem xét thái độ của các giai cấp đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, chính chủ nghĩa dân tộc đã thúc giục
ngƣời An Nam bao gồm cả các nhà tƣ bản, cả một số ngƣời đứng đầu chế độ phong
kiến nhƣ Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân cũng nổi dậy chống thực dân Pháp. Chính
từ sự nhìn nhận sát thực và sáng tạo đó, Hồ Chí Minh xem xét hai giai cấp đối lập với
giai cấp công nhân và nông dân, tức giai cấp tƣ sản và giai cấp địa chủ. Điểm độc đáo
trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh khi xem xét, đánh giá giai cấp tƣ sản và địa chủ, Ngƣời đã
đánh giá một cách khách quan, cụ thể bản chất của hai giai cấp đó mà không bị rơi vào
"vơ đũa cả nắm". Về lợi ích kinh tế thì cả tƣ sản và điạ chủ là những giai cấp bóc lột,
đối lập với giai cấp công nhân và nông dân. Nhƣng xét trên bình diện lớn hơn đó là lợi
ích quốc gia dân tộc, trƣớc hết là độc lập dân tộc thì tƣ sản, địa chủ là những giai cấp
không thuần nhất. Một bộ phận đi hẳn với thực dân, đế quốc, trong khi một bộ phận
khác có thể đồng hành với giai cấp công nhân và nông dân, đồng hành cùng dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng: "Họ tuy hai mà một, một mà hai"9. Đây chính là cơ sở để Hồ
Chí Minh đề ra đối sách phù hợp với từng bộ phận.
8
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.258.
9
Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.195.
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
273|
Trước hết, đối với giai cấp tư sản: Hồ Chí Minh chia giai cấp tƣ sản thành hai loại,
tƣ sản mại bản và tƣ sản dân tộc. Trong đó, tƣ sản mại bản có quyền lợi gắn liền với đế
quốc, phong kiến, đây là đối tƣợng mà cách mạng cần đánh đổ. Tƣ sản dân tộc hay "tư
sản bản xứ" không có thế lực gì, thì Hồ Chí Minh chỉ rõ: Trong tƣ sản dân tộc không có
ai làm chủ nhà máy hoặc nhà hàng lớn. Họ chỉ là chủ xƣởng nhỏ nhƣ xƣởng mộc, xay
xát lúa gạo, xƣởng in, nên thế và lực của họ yếu ớt. Một mặt họ oán ngƣời Pháp, mặt
khác khi phong trào công nhân lên mạnh, họ sợ cách mạng. Từ đó Hồ Chí Minh chủ
trƣơng: Đảng phải có thái độ khôn khéo, mềm dẻo, phải hết sức lôi kéo họ, thúc đẩy họ
hành động nếu có thể, cô lập họ về chính trị nếu cần, chí ít là trung lập họ. Hồ Chí Minh
chỉ rõ: Tránh hết sức để họ ngoài mặt trận, và nhƣ vậy là đẩy họ rơi vào tay bọn phản
động, là tăng thêm lực lƣợng cho chúng.
Đối với giai cấp địa chủ. Về mặt lý thuyết thì đây chính là đối tƣợng của cách
mạng giải phóng dân tộc, cần phải đánh đổ, nhƣng Hồ Chí Minh lại là một trong số ít
những nhà chính trị, lãnh tụ cộng sản nhìn nhận, đánh giá giai cấp địa chủ ở các nƣớc
thuộc địa, trong đó có Việt Nam rất độc đáo. Tháng 01/1924, Ngƣời đã nhận định rằng,
địa chủ ở Trung Quốc gồm hai lực lƣợng: Địa chủ hạng lớn, địa chủ hạng vừa. Khi xem
xét giai cấp địa chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận định: Có một bộ phận có thể đồng
hành cùng dân tộc trong cuộc đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân
tộc. Theo Hồ Chí Minh, giai cấp địa chủ bao gồm: Đại địa chủ, bộ phận này về kinh tế
cũng nhƣ chính trị đều đứng hẳn về phe đế quốc, là những lực lƣợng phản động. Vì
vậy, trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng phải đánh
trúc bọn đại địa chủ. Đối với phú nông, trung và tiểu địa chủ thì cần khôn khéo phát
động và phát huy tinh thần dân tộc của họ, chí ít là trung lập họ. Nhƣ vậy, quan điểm
của Hồ Chí Minh đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ gần giống với bộ phận tƣ sản
dân tộc.
Đối với tiểu tư sản. Hồ Chí Minh cho rằng, ở Việt Nam thì thƣơng nghiệp lớn đã
nằm trong tay ngƣời Pháp, nhỏ hơn thì nằm trong tay Hoa kiều. Ngƣời Việt chỉ buôn
bán nhỏ, họ không ngoi lên đƣợc do bị chèn ép và phải chịu các loại thuế rất nặng nề.
Do đó, họ rất căm ghét ngƣời Pháp, đồng tình với cách mạng. Chính từ sự phân tích
khách quan, khoa học trên, Hồ Chí Minh đã vạch rõ: Đảng phải lôi kéo tiểu tƣ sản,... về
phía giai cấp vô sản.
Cách xem xét, đánh giá các giai cấp, tầng lớp của Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở lý
luận và thực tiễn vững chắc, cho phép phát huy đến mức cao nhất sức mạnh tinh thần
dân tộc, chủ nghĩa dân tộc, tiềm ẩn trong từng giai cấp và tầng lớp cũng nhƣ cá nhân
mỗi con ngƣời vào sự nghiệp chung là giải phóng dân tộc.
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam
|274
Về lực lượng quốc tế ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Đông Dương: Xuất phát từ quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính tất yếu giai cấp công nhân phải đoàn kết quốc
tế, nhằm tận dụng tối đa nguồn sức mạnh bên trong kết hợp với sức mạnh thời đại, sức
mạnh quốc tế, nguồn lực từ bên ngoài. Thấm nhuần quan điểm đó, ngay từ khi chƣa trở
thành ngƣời cộng sản, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm mang tính mácxít về vai
trò của nhân tố quốc tế. Những nhận thức đó đƣợc Ngƣời phát triển trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình. Lực lƣợng quốc tế chủ yếu ủng hộ cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền đƣợc Hồ Chí Minh nói tới bao gồm:
Đối với quốc tế cộng sản: Hồ Chí Minh luôn gắn niềm tin của mình vào chủ nghĩa
chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản ở cùng một thời điểm. Tháng 7/1920, khi
Ngƣời đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của
Lênin. Từ đó đến năm 1940, Hồ Chí Minh luôn đề cập đến vấn đề Quốc tế Cộng sản
cần và phải giúp đỡ Việt Nam nhiều hơn nữa. Theo Hồ Chí Minh, tầm quan trọng của
Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam không chỉ là những vấn đề chủ trƣơng,
đƣờng lối, đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, mà còn là vấn đề trƣớc tiên mọi cuộc cách mạng
cần phải có, đó chính là việc thành lập Đảng Cộng sản. Trong điều kiện thuộc địa thiếu
thốn và ở thời kỳ đầu khi Đảng ta mới ra đời, sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản càng
cần thiết. Ngay từ những việc tƣởng chừng nhƣ rất nhỏ nhƣ cung cấp các loại sách báo
ABC về chủ nghĩa cộng sản. Trong thƣ gửi Ban Phƣơng Đông của Quốc tế Cộng sản
vào tháng 01/1935, Hồ Chí Minh nhận thấy có trách nhiệm báo cáo với Ban một vấn đề
bức thiết của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, đó là tình trạng: đại đa số các đồng chí của
chúng tôi, trình độ lý luận và chính trị rất thấp. Học không hiểu cách mạng dân chủ tƣ
sản là gì. Hồ Chí Minh thẳng thắn gọi đó là sự ngu dốt. Ngƣời cho rằng, biện pháp duy
nhất có hiệu quả để khắc phục tình trạng trên là Ban Phƣơng Đông cần xuất bản và
cung cấp cho những ngƣời cộng sản Đông Dƣơng những quyển sách nhỏ viết về các
vấn đề nhƣ: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản; Đảng Cộng sản và tổ chức của Đảng; lịch sử
Quốc tế Cộng sản; vấn đề dân tộc; vấn đề ruộng đất; khởi nghĩa vũ trang. Từ đó, Hồ
Chí Minh kết luận: An Nam muốn cách mệnh thành công, thì nhất thiết phải nhờ đệ
tam quốc tế.
Đối với Liên bang Xô viết: Trƣớc và sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh sống
và làm việc ở Liên Xô hơn 10 năm. Do đó, Ngƣời thấu hiểu và luôn nhấn mạnh vai trò
và sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với cách mạng Việt Nam. Trƣớc hết đó là tấm
gƣơng sáng cho các nƣớc thuộc địa trong đó có Việt Nam noi theo. Cách mạng tháng
“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)
275|
Mƣời Nga là cuộc cách mạng đã thành công và thành công đến nơi: Đuổi đƣợc bọn tƣ
bản, địa chủ, ra sức giúp đỡ công nông các nƣớc và các dân tộc thuộc địa làm cách
mạng để đạp đổ tất cả đế quốc và tƣ bản trên thế giới. Từ những năm 1920 của thế
kỷ XX trở đi, Hồ Chí Minh có nhiều bài viết về vai trò to lớn của Liên Xô đối với cách
mạng Việt Nam. Ngay sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh tự đặt cho mình nhiệm vụ
viết một cuốn sách để nói cho ngƣời Việt Nam biết về đất nƣớc của Lênin. Hồ Chí
Minh viết thƣ gửi các đồng chí Liên Xô kèm theo đề cƣơng cuốn sách. Sự kiện trên
càng chứng tỏ tầm quan trọng về sự giúp đỡ của Liên X