Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm do túi ni-lông gây ra ở thành phố Hồ Chí Minh

* Công tác quản lý môi trường phải chặt chẽ, tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt xử dụng túi nilon của người dân*Tìm ra * những công nghệ mới, phát triển khoa học kĩ thuật tiên tiến nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường * mỗi người hãy tập thói quen hạn chế sử dụng túi nilon khi không thật cần thiết, góp phần hạn chế số lượng túi nilon thải ra môi trường hằng ngày * Giải quyết vấn đề rác túi nilon bằng cách nghiên cứu, sản xuất túi nilon tự phân huỷ là một giải pháp khả thi cao, dung hoà được lợi ích kinh tế và vệ sinh môi trường

ppt40 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1722 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm do túi ni-lông gây ra ở thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM DO TÚI NI-LÔNG GÂY RA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Lớp K13M1 Nhóm:5…..Gồm các SV GV:VƯƠNG QUANG VIỆT SV1: NGUYỄN TUẤN NGHỊ SV2: MAI VĂN DŨNG SV3: VÕ HOÀNG SANG SV4: BÙI TẤN THIÊN KIM SV5: TRẦN MINH HÙNG SV6: NGUYỄN QUỐC ĐẠT Nội dung trình bày *GiỚI THIỆU *ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU CHÍNH *NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM DO TÚI NI-LÔNG GÂY RA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH GiỚI THIỆU Túi ni-lông được sản xuất từ nhựa polyethylene có nguồn gốc từ dầu mỏ và quá trình tự phân hủy của nó diễn ra rất chậm. Thực tế, dưới tác động của ánh sáng, túi xốp vỡ ra thành nhiều phân tử nhựa nhỏ hơn, độc hại hơn và cuối cùng gây ô nhiễm cho đất và nguồn nước. Chúng có thể len lỏi vào thức ăn của động vật và con người. Khi không được vứt ra bãi rác hoặc đốt bỏ, túi nhựa thường được nước đưa ra biển thông qua đường cống thải, sông rạch. Giới thiệu Địa điểm khu vực nghiên cứu;thành phố HỒ CHÍ MINH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CHÍNH; NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM DO TÚI NI-LÔNG GÂY RA Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Đề cương nghiên cứu chi tiết *Tên dề tài Vấn dề ô nhiễm túi nilon tai thành phố HỒ CHÍ MINH *Cơ quan quản lí; Khoa Công Nghệ và Quản Lý Môi Trường. Trường ĐHDL Văn Lang Cơ quan phối hợp *Bộ tài nguyên và quản lí môi trường *Sở tài nguyên môi trường *Cục bảo vệ môi trường Tình hình nghiên cứu Trong nước * Ở Việt Nam, mỗi ngày các bà nội trợ cũng thải ra hàng triệu túi, bao bì bằng ni-lông. Chỉ một phần nhỏ trong số này được thu gom, tái chế, còn phần lớn bị vứt đi vô tội vạ không chỉ gây lãng phí về kinh tế, mà còn đặt ra nhiều vấn đề về môi trường Theo các nhà khoa học, việc sử dụng bao bì ni-lông có thể gây nguy hại đối với môi trường bởi đặc tính không phân hủy của plastic. Bao bì ni-lông lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của các loài thực vật bị nó bao quanh, cản trở sự phát triển của cây cỏ, dẫn đến hiện tượng xói mòn ở các vùng đồi núi. Bao bì ni-lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống thoát nước thải sẽ làm cho ruồi muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni-lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải hoặc mắc phải. Tình hình nghiên cứu ngoài nước *Trung quốc Trung Quốc là nước đi đầu trong việc hạn chế đến mức tối đa việc sử dụng ni-lông trong bao gói sản phẩm, đựng hàng hóa. Nhiều nước cũng đã tham gia "Một ngày không có ni-lông" vì môi trường sống, vì sức khỏe của con người. Nhưng trong tương lai, vẫn cần các nhà nghiên cứu chế tạo ra một loại hợp chất có thể thay thể được ni-lông nhưng lại dễ phân hủy, không độc hại đến môi trường, môi sinh. Nước Anh *Theo Telegraph, xứ Wales sẽ là nơi đầu tiên tại đảo quốc sương mù áp dụng thuế đối với túi nilon đựng hàng hóa. Cơ quan lập pháp xứ Wales hôm qua thông báo sắc thuế mới sẽ bắt đầu được áp dụng từ đầu năm 2011. Với mỗi túi nilon người sử dụng phải nộp 15 xu (khoảng 4.500 VNĐ) cho cửa hàng. Số tiền thu được sẽ dành cho các dự án bảo vệ môi trường. * Những người ủng hộ chủ trương này hy vọng sắc thuế mới sẽ khuyến khích người dân đựng hàng hóa bằng loại túi sử dụng nhiều lần hoặc có khả năng phân hủy nhanh. * Ireland đã áp dụng thuế túi nilon từ năm 2002 với mức thuế 15 xu/túi. Kể từ đó tới nay số tiền thu được đã đạt 109 triệu bảng (153 triệu USD). Số lượng túi nilon mà người dân Ireland sử dụng giảm tới 90% và chi phí xử lý rác thải cũng giảm rõ rệt Nước pháp * Ở nhiều siêu thị của Pháp, người mua hàng được khuyến khích mua các túi đựng hàng loại lớn và siêu thị sẽ không phát các túi nylon đựng hàng cỡ thông thường nữa. Các túi nylon cỡ lớn này giá rất rẻ (khoảng 0,1 euro, tương đương với 2.000 đồng), có thể sử dụng nhiều lần và khi rách thì có thể đem đến siêu thị để đổi lấy túi mới. * Có nhiều chất liệu, loại nylon thông thường, loại nylon có thể phân huỷ sinh học (biodegrable), loại bằng chất liệu giấy... và các kích cỡ khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu của người tiêu dùng, của từng gia đình. Chiến dịch này đã rất được người dân Pháp ủng hộ và đang được nhân rộng trên toàn nước Pháp. Tính cần thiết của nghiên cứu * Hiện nay, một số siêu thị khác của TP. HCM cũng đang khuyến khích khách hàng dùng túi sử dụng nhiều lần thay cho túi nilon sử dụng một lần. Tuy nhiên, để hạn chế sử dụng túi nilon, nếu chỉ có sự nỗ lực của các doanh nghiệp thôi thì chưa đủ, quan trọng là mỗi người tiêu dùng phải thay đổi thói quen đã tồn tại từ rất lâu nay.Nhà nước cần phải đưa ra các biện pháp thuyết phục để người dân thay đổi dần thói quen xử dụng túi nilon Mục tiêu của đề tài - Làm quen với các phương pháp đánh giá tác động môi trường. - Nhận biết các vấn đề môi trường. - Hiểu được cách giải quyết. - Các vấn đề còn tồn tại. - Xác định các ảnh hưởng nhằm đề ra các biện pháp kỹ thuật và quản lý để giảm đến mức thấp nhất các ảnh hưởng xấu và phát huy cao nhất các ảnh hưởng tốt. Một hệ thống ĐTM lý tưởng phải được áp dụng cho tất cả các dự án có ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và xác định rõ ảnh hưởng nào là nghiêm trọng nhất. Nội dung nghiên cứu chinh - Xác định hiện trạng ô nhiễm môi trường do túi ni_lông gây ra. - Đánh giá tác động môi trường do các hoạt động chôn lấp chất thải rắn đối với môi trường; - Đề xuất các biện pháp công nghệ để xử lý ô nhiễm; - Đề xuất các biện pháp quản lý phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường. Phương pháp nghiên cứu - Khảo sát thực tế, lấy ý kiến của người dân, người mua hàng về tác hại của việc sử dụng túi ni-lông. - Thu thập số liệu từ cơ quan quản lý trực thuộc, tham khảo thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Đánh giá tác động tổng hợp bằng các phương pháp đã học: sơ đồ lưới, bảng liệt kê, ma trận, … Sản phẩm của đề tài Ngiên cứu về vấn đề xử dụng túi ni-long hiện nay của người dân trên địa bàn thành phố HỒ CHÍ MINH ,trình bày dưới dạng báo cáo do bộ tài nguyên và môi trường phê duyệt Dự đoán kinh phí Khoảng 50 nghìn đồng tiền truy cập internet và 100 nghìn đồng tiền xăng đi khảo sát Tiến độ thực hiện Từ ngày 27/5/2010 đến 03/6/2010: Hoàn thành phần giới thiệu và đề cương chi tiết của đề tài. Từ ngày 03/6/2010đến 10/6/2010: Hoàn thành nội dung chương 3 và trình bày báo cáo nghiên cứu. Giới thiệu về thành phố HỒ CHÍ MINH * Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam * Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,01 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người (chiếm 8,30% dân số Việt Nam)[1], mật độ trung bình 3.401 người/km². Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 8 triệu người. Nội dung nghiên cứu chính Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn có dân số tăng quá nhanh. Trong nội ô thành phố, đường xá trở nên quá tải, thường xuyên ùn tắc. Hệ thống giao thông công cộng kém hiệu quả. Môi trường thành phố cũng đang bị ô nhiễm do phương tiện giao thông, các công trường xây dựng và công nghiệp sản xuất. Vị trí địa lí * Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế[2]. Điều kiện tự nhiên * Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, Thành phố Hồ Chí Mình có nhiệt độ cao đều trong năm và hai mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270 giờ nắng một tháng, nhiệt đó trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C. * Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió tín phong theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa, 80%, và xuống thấp vào mùa không, 74,5%. Trung bình, độ ẩm không khí đạt bình quân/năm 79,5%[6 Kinh tế * Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài[29 * Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao Xã hội Dân cư Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều, ngay cả các quận nội ô. Trong khi các quận 3, 4, 5 hay 10, 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km² thì các quận 2, 9, 12 chỉ khoảng 2.000 tới 6.000 người/km². Ở các huyện ngoại thành, mật độ dân số rất thấp, như Cần Giờ chỉ có 96 người/km²[25]. Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 1,9%[40]. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có khoảng 1 triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, có số này còn có thể tăng lên tới 2 triệu[41]. Y tế Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 21.780 nhân viên y tế, trong đó có 3.399 bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 nghìn dân, giảm so với con số 7.31 của năm 2002[44]. Toàn thành phố có 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh[45]. Thế nhưng mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung chủ yếu trong nội ô. Theo con số năm 1994, chỉ riêng Quận 5 có tới 13 bệnh viện với 5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh toàn thành phố[46]. Bù lại, hệ thống y tế cộng đồng tương đối hoàn chỉnh, tất cả các xã, phường đều có trạm y tế. Bên cạnh hệ thống nhà nước, thành phố cũng có 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước, các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên môn chưa được chặt chẽ[42]. Hiện trạng túi nilon tại THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH * Túi nilon đã trở thành vấn nạn của các thành phố lớn cũng như ở nông thôn. Hầu như không có con đường, ngõ phố hay lối xóm nào không có túi nilon phất phơ, vương vãi. Cảnh tượng các ao hồ hay sông ngòi bồng bềnh những túi rác đã trở nên quá quen thuộc.Tuy nhiên túi nilon lại mang tiềm ẩn ô nhiễm môi trường rất độc hại và nó có 1 độ bền cơ học rất cao nên rất khó để phân hủy Vì thế, túi nilon được xem là một trong những loại rác khó phân hủy nhất thế giới Đánh giá tác động môi trường do tui nilon gây ra * Với số lượng túi nilon thải ra môi trường quá nhiều hiện nay thì vấn dề ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề quan trọng cần được giải quyết ảnh hưởng dối với môi trường nước * Túi nilon thải ra kênh rạch làm tác nghẽn dòng chảy , ảnh hưởng tới hoạt động sống của con người ,cá chết hàng loạt ảnh hưởng tới hệ sinh thái , Túi nilon kẹt sâu trong cống rãnh, kênh rạch còn làm tắc nghẽn cống, rãnh, kênh, rạch gây ứ đọng nước thải và gây ngập úng. Các điểm ứ đọng nước thải sẽ là nơi sản sinh ra nhiều vi khuẩn gây bệnh ảnh hưởng tới môi trường đất Túi nilon phân hủy rất chậm nên khi chôn vào đất sẽ làm cho nền đất ở đó yếu , sau một thời gian các chất hóa học độc hại trong túi nilon sẽ làm ô nhiễm môi trường đất, làm cây cối bị chết, túi nilon lẫn vào đất sẽ ngăn cản ôxi đi qua đất, gây xói mòn đất, làm cho đất không giữ được nước, dinh dưỡng, từ đó làm cho cây trồng chậm tăng trưởng ảnh hưởng tới sức khỏe Một tác hại nữa đó là việc xử lý túi nilon là một bài toán khó giải. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, việc chôn lấp túi nilon sẽ ảnh hưởng tới môi trường đất, nước do nilon khó phân hủy, còn đốt chúng sẽ tạo ra khí thải có chất độc dioxin và Furan gây ngộ độc, ảnh hướng đến tuyến nội tiết, gây ung thư, giảm khả năng miễn dịch, rối loạn chức năng tiêu hóa và các dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ… Theo các nhà khoa học, trong một số loại túi nilon có lẫn lưu huỳnh, dầu hỏa nguyên chất, khi bị đốt cháy, gặp hơi nước sẽ tạo thành axit sunfuric dưới dạng các cơn mưa xait rất có hại cho phổi Mất mỹ quan đô thị Giải pháp khác phục đang thực hiện và dự định sẽ thực hiện - Tuyên truyền cho người dân biết về tác hại của túi nilon tới sức khỏe của con người cũng như ảnh hưởng tới môi trường sống xung quanh - Thu phí xử dụng túi nilon - Xử dụng túi phân hủy sinh học - Các siêu thị ,cửa hàng không phát miễn phí túi nlon cho khách hàng - Tăng cường việc quản lý và giám sát các nơi sản xuất và tái chế túi nilon Kết luận và kiến nghị Kết luận Hiện nay ,dù các nhà quản lí ở TP.HCM đã có rất nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu xử dụng túi nilon,tuy nhiên những giải pháp đó cũng chưa khắc phục được tình trạng hiện tại Tại Việt Nam, theo một khảo sát của cơ quan môi trường, việc sử dụng vô tội vạ túi nilon dường như thành thói quen khó bỏ của người Việt Nam. Trung bình một người Việt Nam /năm sử dụng ít nhất 30kg các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa. Từ 2005 đến nay, con số lên tới 35 kg/người/năm. Năm 2000, trung bình một ngày, Việt Nam xả khoảng 800 tấn rác nhựa ra môi trường. Đến nay, con số đó là 2.500 tấn/ngày và có thể còn hơn. Theo ngành môi trường, nhu cầu về vốn đầu tư bảo vệ môi trường của Việt Nam là 85.000 tỷ đồng. Trong số tiền trên, có đến vài trăm tỷ được sử dụng để khắc phục những thiệt hại do đồ nhựa, túi nilon thải ra môi trường. Kiến nghị * Công tác quản lý môi trường phải chặt chẽ, tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt xử dụng túi nilon của người dân*Tìm ra * những công nghệ mới, phát triển khoa học kĩ thuật tiên tiến nhằm phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường * mỗi người hãy tập thói quen hạn chế sử dụng túi nilon khi không thật cần thiết, góp phần hạn chế số lượng túi nilon thải ra môi trường hằng ngày * Giải quyết vấn đề rác túi nilon bằng cách nghiên cứu, sản xuất túi nilon tự phân huỷ là một giải pháp khả thi cao, dung hoà được lợi ích kinh tế và vệ sinh môi trường