Tóm tắt
Truyện Nôm bác học là một di sản văn hóa, văn học độc đáo của dân tộc. Nó được quan tâm nghiên cứu
trên khá nhiều khía cạnh khác nhau từ nhiều phương pháp cụ thể: xã hội học Marxist, so sánh, văn hóa.
nhưng đến nay, nó vẫn còn nhiều điều còn bỏ ngỏ. Truyện Nôm bác học tự bản thân nó luôn hàm chứa
nhiều giá trị và vẫy gọi nhiều hướng nhìn. Bài viết này quan tâm trực tiếp đến hai vấn đề về truyện Nôm
bác học: một là kiểm thảo những cách tiếp cận đã có, và thứ hai, hướng đến xác lập cách đọc từ phương
pháp tâm lí các chiều sâu của C. Jung. Từ đây, truyện Nôm bác học được chúng tôi nhìn nhận từ khía
cạnh các cấu trúc chìm - cấu trúc nội giới.
11 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu truyện Nôm bác học trên chiều lịch đại - Những cách tiếp cận và hướng đến đọc khác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 7 (32) - Thaùng 9/2015
49
Nghiên cứu truyện Nôm bác học trên chiều lịch đại -
Những cách tiếp cận và hướng đến đọc khác
Diachronical approach to scholarly Nom stories and others
ThS. Nguyễn Quang Huy
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng
M.A. Nguyen Quang Huy
The University of Education - University of Da Nang
Tóm tắt
Truyện Nôm bác học là một di sản văn hóa, văn học độc đáo của dân tộc. Nó được quan tâm nghiên cứu
trên khá nhiều khía cạnh khác nhau từ nhiều phương pháp cụ thể: xã hội học Marxist, so sánh, văn hóa...
nhưng đến nay, nó vẫn còn nhiều điều còn bỏ ngỏ. Truyện Nôm bác học tự bản thân nó luôn hàm chứa
nhiều giá trị và vẫy gọi nhiều hướng nhìn. Bài viết này quan tâm trực tiếp đến hai vấn đề về truyện Nôm
bác học: một là kiểm thảo những cách tiếp cận đã có, và thứ hai, hướng đến xác lập cách đọc từ phương
pháp tâm lí các chiều sâu của C. Jung. Từ đây, truyện Nôm bác học được chúng tôi nhìn nhận từ khía
cạnh các cấu trúc chìm - cấu trúc nội giới.
Từ khóa: truyện Nôm bác học, phương pháp, C. Jung, tâm lí các chiều sâu, nội giới...
Abstract
The scholarly Nom stories are the original heritage of literature and culture of our nation. It is
interesting the topic attracts a great deal of scientific researches: marxist sociology, comparative
method, cultural method and so on; but for now it is to say the work is far from perfect. The scholarly
Nom stories always preserve many values and suggests numerous points of views. This article solves
directly two puzzles of the scholarly Nom stories: firstly, we examine the former approaches, secondly
we aim to establish a reading way derived from Jung’s method of the in – depth psychology.
Henceforth, the scholarly Nom stories are considered by us through aspect of the submersible structure
– internal link structure (profound structures – the structure of psychological life).
Keywords: the scholarly Nom stories, method, Carl Jung, depth psychology, the psychological life
1. Dẫn nhập
Truyện Nôm người Việt cho đến nay
đã được ghi nhận như một di sản văn hóa
độc đáo, là kho tư liệu phong phú không
những dành cho lĩnh vực khoa học văn học,
mà còn là mảnh đất ẩn chứa nhiều giá trị
xác tín cho các nhà ngữ học lịch sử, dân tộc
học, văn hóa học v.v. Sự nảy sinh và phát
triển trong vòng hơn ba thế kỷ (thế kỉ XVI,
đến những năm đầu của thế kỉ XX) rồi
chấm dứt hẳn đã đưa hiện tượng đặc biệt
này vào kí ức lịch sử, tồn tại trong tính lịch
sử, một lịch sử mà phần lớn các giá trị của
nó còn trong hành trình mơ màng cần được
đánh thức bằng các phương pháp nghiên
cứu đặc thù, trên cả hai phương diện, văn
NGHIÊN CỨU TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TRÊN CHIỀU LỊCH ĐẠI
50
bản học và những cấu trúc nhân văn.
Ngay khi quan sát bề ngoài, hiện
tượng truyện Nôm đã hàm chứa nhiều điều
phức tạp hơn người ta tưởng về một thể
loại mà ở đó có sự hiện diện của cấu trúc tự
sự thấm đẫm màu sắc trữ tình. Sự phức tạp
này thể hiện trên nhiều mặt, từ vấn đề
ngoại quan lẫn nội quan dọc theo các thành
tựu nghiên cứu đã có. Đó là vấn đề về tác
giả (liên đới một phần quan trọng với thuật
ngữ truyện Nôm bác học mà chúng tôi sẽ
dẫn giải ngay sau đây); vấn đề mối quan hệ
về chiều ảnh hưởng của văn hóa văn học
dân gian, bình dân với văn hóa bác học, cái
nào chịu ảnh hưởng của cái nào; vấn đề tư
duy đặc thù của một thể loại đặc thù(1); vấn
đề phương pháp nghiên cứu tương thích
v.v. thậm chí đến thuật ngữ gọi tên như:
truyện Nôm bác học, truyện Nôm bình dân,
truyện thơ Nôm, truyện Nôm khuyết danh,
v.v. cũng làm cho một định hình về tính
khách quan của đối tượng này có nguy cơ
dẫn tới nhiều bối rối và ràng buộc. Chúng
tôi nhận thức được đang rơi vào sự khó
khăn và nhiều nguy cơ rất dễ sa ngã này.
1.1. Thuật ngữ truyện Nôm bác học
Tên gọi truyện Nôm hay truyện thơ
Nôm theo chúng tôi không dẫn đến cách
hiểu khác biệt, chúng cùng chỉ về một đối
tượng cụ thể mà ở đó có sự tham dự đặc
biệt song hành như một chiều hướng điều
hòa giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình,
giữa yếu tố thơ và truyện, giữa yếu tố triển
khai giá trị hình tượng nghệ thuật theo trật
tự trục ngang và trục dọc, là sự dung hợp
của yếu tố trần thuật (narration) và yếu tố
trầm tư (méditation) của loại hình nghệ
thuật ngôn từ(2), giữa cấu trúc tự sự có nội
dung yêu đương - sinh hoạt thế tục kết hợp
với cấu trúc trữ tình mang tính triết lí.
Mỗi một ý niệm đưa ra để gọi tên một
vấn đề thường dựa trên sự tương tác đối
lập, hoặc chí ít trong trường nghĩa có tính
chất khác biệt. Theo đó, truyện Nôm bác
học(3) phân biệt với truyện Nôm bình dân(4),
mỗi dòng đều có người sáng tác, công
chúng, đề tài, đời sống văn học, phương
thức truyền bá, tư tưởng thẩm mĩ riêng như
Trần Đình Hượu (Trần Đình Hượu, 1990)
đã chỉ ra và chúng tôi theo quan điểm phân
chia này. Về mặt tư tưởng, cả hai dòng này
có những tương quan nhất định chứ không
hề tách biệt hẳn. Truyện Nôm bác học
trước hết dẫn ra như một vấn đề văn tự
(viết bằng chữ Nôm), nghiêng về phong
cách học (phong cách cao, thuộc về trí thức
bậc cao, đặc quyền của giới tinh hoa) nhằm
tạo ra khoảng cách với truyện Nôm bình
dân (phong cách thấp, thuộc giới bình dân,
nghiêng về tính chất ứng tác, truyền
miệng). Dấu hiệu nhận biết quan trọng nhất
của nó là ở bút pháp sáng tạo thể hiện trong
tác phẩm. Theo đó, trong môi trường sáng
tạo văn hóa - văn học trung đại thuộc tư
duy đông Á, Đông Nam Á, truyện Nôm
bác học người Việt khu biệt với truyện
Nôm bình dân ở chỗ, ngoài việc vận dụng
ngôn ngữ trau chuốt (dấu hiệu của dụng
công trong tạo tác), còn là việc sử dụng các
yếu tố cốt truyện, tập cổ (dựa trên văn liệu
Trung Hoa, cốt truyện Trung hoa, cốt
truyện Đông Nam Á, ý tưởng của tiền
nhân, thánh nhân để tạo ra một thế giới
riêng), sử dụng dày đặc các điển, các tích,
và đặc biệt nhất là dấu ấn thế giới quan,
nhân sinh quan, trên cơ sở đó, đem đến các
cách ứng xử khác nhau, thái độ khác nhau
về thân phận con người. Liên quan đến vấn
vấn đề tư tưởng truyện Nôm có hai cách
xuất phát điểm, hai xu hướng: xu hướng
đặt nó trong kiểu tư duy Đông Á - (Đặng
Thanh Lê, 1979), (Durand, 1998) và xu
hướng đặt nó trong kiểu tư duy Đông Nam
Á - (Riftin, 2012, pp. 66-81), (Niculin,
2000)(5). Truyện Nôm bác học cũng đồng
thời dung chứa trong mình cả các yếu tố
thần thoại, cổ tích, Phật tích, cốt truyện
nước ngoài, truyện dịch, diễn ca các vấn đề
lịch sử Theo Riftin, văn xuôi tự sự ở
Việt Nam phát triển từ những tập truyện
ngắn mang tính thần thoại kiểu các truyện
chí quái của Trung Hoa, đến loại truyện
NGUYỄN QUANG HUY
51
văn học phát triển thế kỉ XVI, rồi sau đó, ở
đó, khác với các nước Viễn Đông khác,
xuất hiện không phải các truyện, mà là các
truyện thơ (thế kỉ XVII - XVIII) điều đó
không phải là ngẫu nhiên. Nó thể hiện
những truyền thống của Đông Nam Á. Rõ
ràng rằng ở tất cả các dân tộc trên phần đất
này của châu Á, văn chương tự sự phát
triển dưới hình thức thơ - các truyện thơ.
Cũng chính vì vậy, truyện Nôm bác học,
chúng tôi xét, về cấu trúc tư tưởng, có hai
cơ tầng, hai dòng: dòng tư tưởng Đông Á
(Trung Hoa) và dòng bản địa (Đông Nam
Á) tạo nên nét vừa cổ kính vừa dân dã
trong văn học (Riftin, 2012, p. 74). Trên
bình diện nhân vật, truyện Nôm bác học
mang dấu ấn cá tính phân biệt với dấu ấn
loại tính, có xu hướng nằm trong văn hóa
dân gian (Kiều Thu Hoạch, 2007). Nếu làm
một phép so sánh giữa Hoa tiên, Đoạn
trường tân thanh (truyện Nôm bác học) và
Phạm công Cúc Hoa, Phương Hoa (truyện
Nôm bình dân) trên các phương diện trên
chúng ta sẽ thấy rõ sự khác biệt.
Một vấn đề khác đặt ra, trường hợp
các truyện Nôm như Phan Trần, Nhị độ
mai, phần lớn các nhà nghiên cứu xếp đặt
nó vào truyện Nôm khuyết danh tồn tại
cùng với truyện Nôm bình dân. Khuyết
danh hay hữu danh là một vấn đề khác, liên
quan đến ba nhận thức: 1/ truyền thống
không đặt nặng tính chất sở hữu các trước
tác(6); 2/ liên quan đến việc cấm kị, tai họa
mà tầng lớp thống trị ngăn cấm, nó thuộc
ngoài văn bản, không giống như tiêu chí
phong cách và tư tưởng; và 3/ mặc cảm về
tính chất bên lề, ngoại vi, nôm na dân dã
đứng bên cạnh dòng văn học Hán chính
thống vốn tồn tại đầy uy nghi từ lâu đời.
Yếu tố này dù ít dù nhiều cũng góp phần
tác động vào thế đứng có kiêu hãnh hay
không của một dòng văn học. Khi phân
chia các lĩnh vực thuộc văn học, chúng tôi
tôn trọng và tuân theo các tiêu chí tư tưởng
văn học, lấy cái nhìn nội quan để đánh giá.
Theo đó, các trường hợp truyện Nôm khuyết
danh như vừa kể trên đều được chúng tôi
xếp vào bộ phận truyện Nôm bác học.
1.2. Giá trị nội tại
Đến đây tạm gác sang một bên những
vấn đề tranh cãi về thuật ngữ vốn tồn tại
vừa tranh luận vừa có lí do riêng bấy lâu,
chúng tôi muốn đề cập tới một phương
diện khác của truyện Nôm bác học, là ở
chiều kích văn hóa của nó. Không phải
ngẫu nhiên mà giai đoạn từ thế kỉ XVII đến
thế kỉ XIX, là giai đoạn có sự xuất hiện
những nhận thức sâu sắc về thân phận con
người trên nhiều mặt: thân và tâm, tinh
thần và thể xác, tâm linh và trần tục(7).
Trên chiều nhận thức, các truyện Nôm
bác học đã để cho các nhân vật của mình
thể hiện các thái độ, lời nói, hành vi trong
tương quan mật thiết với hai thế giới sống
đặc biệt: thế giới nội tâm tâm linh và với
thế giới bên ngoài hiễn hữu như những
thực tại tối thượng, mang tính chất bản thể
(siêu hình học) quyết định tất cả các hành
vi con người như: trời, con tạo, ông xanh,
ông tơ bà nguyệt, những linh hồn đã
khuất tất cả những điều này hướng
chúng tôi mượn cái nhìn từ lí thuyết Phân
tâm học của C. Jung, G. Bachelard, đồng
thời, liên quan đến những nội dung kiếp,
nghiệp, số phận trong các truyện Nôm bác
học, chúng tôi có tham khảo lí thuyết tâm lí
học Phật giáo (duy thức học) trong chừng
mực có thể, đặc biệt là thuật ngữ Thức thứ
tám (A lại da thức(8), tương đương với
thuật ngữ vô thức trong Phân tâm học
nhưng mang nghĩa rộng hơn rất nhiều.
Đời sống nhận thức về các giá trị văn
hóa lớn được cân nhắc, để lại nhiều ý nghĩa
quan trọng. Phật giáo, tín ngưỡng bản địa,
Đạo giáo phát triển. Phật giáo được các
chúa Trịnh và Nguyễn quan tâm đặc biệt.
Về mặt nhận thức, có thể dẫn ra đây những
lưu ý của Lê Quý Đôn (1726 - 1784), về
các giá trị văn hóa và các giá trị nhận thức
luận về cái biết (nhận thức về thế giới
sống), đặc biệt là về những điều mà ý thức
Nho giáo không lưu tâm hoặc chê bai:
NGHIÊN CỨU TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TRÊN CHIỀU LỊCH ĐẠI
52
“Đạo giáo của họ Phật, họ Lão, thanh tĩnh
hư vô, cao siêu tịch diệt, không hệ lụy đến
sự vật, đấy cũng là đạo giáo của các bậc
cao minh dùng để tu dưỡng bản thân, đến
những lời bàn luận sâu rộng về đạo đức, về
hình thần không có điều gì là không có ý
nghĩa màu nhiệm. Nhà Nho chúng ta cứ
giữ thành kiến kia khác, thường thường bác
bẻ, như thế có nên không? Hãy nói sản vật
dưới đất, tính tình loài người, ở trong chín
châu, còn mỗi nơi mỗi khác, huống hồ trên
không gian bao là mờ mịt, giữa đại địa
rộng lớn xoay vần, những việc quái dị biến
hiện, không biết thế nào mà hạn định,
người ta chỉ là tấm thân nhỏ bé, dầu có tài
hoa biện luận, dọc ngang tám cõi, thu hút
chín châu, nhưng kiến văn vẫn chưa được
rộng khắp, thế mà hễ thấy sách cổ chép về
sự quỷ thần linh ứng, động vật, thực vật
biến hóa li kì, cùng là hình trạng phương
xa, cảnh tượng quái lạ, đều nhất thiết
không tin, thậm chí chê bai cả tiên phật,
sao mà hẹp hòi thế” (Lê Quý Đôn, 2013,
pp. 174-175). Chính giai đoạn này, nhiều
kinh điển Phật giáo được lưu truyền rộng
rãi. Đây cũng là lí do để chúng tôi hướng
tới mở rộng khảo sát các văn bản văn học,
đặc biệt là truyện Nôm bác học giai đoạn
này từ phương diện tâm lí học Phật giáo.
2. Sơ lược các thành tựu nghiên cứu
truyện Nôm bác học đến nay
2.1. Phải thừa nhận rằng, ngay từ khi
ra đời, đặt trong bối cảnh văn hóa vốn lấy
sự thù tạc, giao đãi, nhuận sắc làm thước
đo cho tính đối thoại, các truyện Nôm bác
học đã được tiếp nhận ngay trong giới hàn
lâm, giới tinh hoa dưới dạng các “bài tựa”,
“đề tựa”, “bài bạt”, “đề từ” - một kiểu giới
thiệu và phát biểu những ý nghĩ ngắn,
mang màu sắc cảm xúc chủ quan, nghiêng
về thái độ đạo đức. Ví dụ bài Đoạn trường
tân thanh đề từ (Phạm Quý Thích), tựa
Đoạn trường tân thanh (Phong Tuyết chủ
nhân Thập Thanh thị), tựa Đoạn trường
tân thanh (Tiên phong Mộng Liên Đường
chủ nhân), bài tựa truyện Hoa tiên (Cao Bá
Quát)(9). Đây là những bài tựa theo các văn
bản truyện Nôm bác học cụ thể (Đoạn
trường tân thanh - Nguyễn Du, Hoa tiên -
Nguyễn Huy Tự), với tiêu chí lấy tình để
đãi tình, lấy đức đãi đức, vừa thể hiện sự
tương tri, tri âm, vừa đong đo sở học - điều
mà Nguyễn Văn Vĩnh (trong Étude sur la
lange et littérature annamites - nghiên cứu
về ngôn ngữ và văn chương An nam)(10)
gọi là “thú ngâm nga”, đồng thời thể hiện
thái độ riêng tư của cá nhân người đánh giá.
Đây cũng là thái độ chung trên dưới mười
thế kỉ của các nhà nho đối với văn chương.
2.2. Bước sang những năm 20 của thế
kỉ XX, đời sống sinh hoạt, văn hóa trở nên
linh hoạt hơn, chuyên nghiệp hơn. Điều
này thể hiện rõ trên Nam Phong tạp chí,
Đông Dương tạp chí, Hữu Thanh, qua các
bài nhận định, giới thiệu, bút đàm, khảo
luận của các học giả quan trọng như:
Nguyễn Văn Vĩnh (Văn chương An Nam -
Đông Dương tạp chí (9) 1913, tr.9-10,
Nguyễn Văn Vĩnh kí tên T.N.T (tân Nam
tử)), Phạm Quỳnh (Truyện Kiều - Nam
Phong (30) 1919), Nguyễn Tường Tam
(Mấy lời bàn luận về văn chương “Truyện
Kiều” - Nam Phong (79) 1924), Ngô Đức
Kế (Luận về chính học cùng tà thuyết quốc
văn - “Kim Vân Kiều” - Nguyễn Du, Hữu
Thanh (81) 9/1924), Vũ Đình Long (Văn
chương Truyện Kiều - Nam Phong (81,83
và 87) 1924), Trần Trọng Kim (Truyện
Thúy Kiều - Khảo luận, chú giải, soạn
chung với Bùi Kỉ, 1925), Đồ Nam -
Nguyễn Trọng Thuật (Nghiên cứu và phán
đoán về Truyện Kiều - Nam Phong (127)
1928)(11). Danh sách này có thể chưa đầy
đủ nhưng nó đã tiêu biểu cho một giai đoạn
nhìn nhận về truyện Nôm bác học. Điều dễ
nhận thấy là các học giả, các nhà văn hóa
tập trung vào một văn bản cụ thể - Truyện
Kiều, kiểu “điểm nhãn” về trường hợp tinh
hoa (tinh hoa cho quốc âm, làm mẫu cho
văn chương quốc ngữ) trong nhiều văn bản
cùng loại hình. Sở dĩ có chuyện này vì liên
quan đến các vấn đề quan trọng mang tính
NGUYỄN QUANG HUY
53
lịch sử như: vấn đề quốc âm, vấn đề sáng
tạo giá trị văn học trong thời đại mới, thời
đại giao thoa về các vấn đề giá trị đạo đức
và giá trị nghệ thuật. Cũng đặt trong cái
nhìn lấy giá trị đạo đức làm điểm quy chiếu
cho văn học trên còn có René
Crayssac(René Crayssac, 2002).
2.3. Bàn luận một cách sâu rộng về
truyện Nôm bác học phải đợi đến những
năm 40 của thế kỉ XX, với Dương Quảng
Hàm(Dương Quảng Hàm, 2005) (1943).
Dù mang tính chất lịch sử nhưng với sự
công phu và khoa học của nó còn ảnh
hưởng sâu sắc tới cách nhìn nhận, đánh giá
mà dấu vết còn kéo dài đến ngày nay. Ông
đã có đóng góp nhất định khi nhìn nhận về
Truyện Kiều, Hoa tiên, Lục Vân Tiên, Bích
Câu kì ngộ, Nhị độ mai, Phan Trần. Các
truyện Nôm Bích Câu kì ngộ, Nhị độ mai,
Phan Trần được tác giả xếp vào khuyết
danh. Dấu ấn khoa học đặc biệt thể hiện rõ
trong khuynh hướng nghiên cứu của
Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa (2003)
bằng phương pháp Duy vật lịch sử, với cái
nhìn văn hóa lịch sử, ông đã tạo ra được
dấu ấn riêng của mình trong giai đoạn này,
khi đi tìm những bí ẩn trong Truyện Kiều
và Nguyễn Du. Trước đó ít lâu có Nguyễn
Tiến Lãng đã ít nhiều muốn xác lập một cái
nhìn riêng, khi ông quan tâm đến truyện
Nôm Hoa tiên, muốn nâng nó ngang tầm
Truyện Kiều. Trong Nét đẹp Hoa tiên -
truyện thơ Annam, Nguyễn Tiến Lãng
trong quá trình phân tích nội dung tình cảm
câu chuyện đã nâng Hoa tiên lên như một
“hình thức mơ mộng có tính cách đặc trưng
của người An nam”(Nguyễn Tiến Lãng,
2012, p. 28).
2.4. Sự phân chia Nam - Bắc về mặt
lịch sử từ sau năm 1954 cũng hình thành
hai cực học thuật trên hai miền Bắc, Nam
của đất nước kéo dài đến năm 1975.
Ở miền Bắc, khuynh hướng chung là
nhìn nhận lại các giá trị văn học cổ của dân
tộc, theo đó, các truyện Nôm có giá trị hiện
thực, thể hiện nỗi đau nhân tình thế thái,
thể hiện tinh thần đấu tranh được phát hiện
và phân tích, qua đó xem xét lại các thành
tựu nghiên cứu đã có giai đoạn trước, để có
cái nhìn thống nhất trong sự tương hợp với
hệ thống kiến trúc thượng tầng chung. Đặc
biệt là Truyện Kiều và các truyện Nôm của
Nguyễn Đình Chiểu, các truyện Nôm bình
dân (Truyện Trinh thử, truyện Trê cóc,
Truyện Quan âm thị Kính, Truyện Thạch
Sanh). Có thể thấy rất rõ điều này qua
những tiểu luận và bài viết của Hoài
Thanh: Nguyễn Du, một trái tim lớn, một
nghệ sĩ lớn; Truyện Kiều; Nguyễn Đình
Chiểu, một nhà thơ lớn, một tấm gương
chói ngời tinh thần bất khuất của dân tộc
Việt Nam(Từ Sơn (chọn và giới thiệu),
2008); Xuân Diệu: nhà thơ thiên tài dân
tộc Nguyễn Du; Bản cáo trạng cuối cùng
trong “Truyện Kiều”; Đọc lại thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu; Đâm mấy thằng gian
bút chẳng tà (Xuân Diệu, 2009); Đặng
Việt Thanh: Tìm hiểu giá trị tập “Sãi Vãi”
của Nguyễn Cư Trinh (Đặng Việt Thanh,
1957, pp. 32-42); Nguyễn Hồng Phong:
Nhận xét chung về truyện Nôm khuyết danh
(Nguyễn Hồng Phong, 2005)Nhìn tổng
quát, các tác giả trên, một mặt tiếp tục khai
thác giá trị Truyện Kiều, nhưng chủ yếu tập
trung ở khía cạnh phản ánh hiện thực cuộc
sống, mượn một văn bản nghệ thuật để
thuyết minh cho tính chất đạo đức và giai
cấp về nội dung đấu tranh và chống áp bức
cường quyền. Dựa trên mô hình phản ánh
luận và đấu tranh giai cấp, vì thế làm cho
yếu tố văn học đi chệch khỏi quỹ đạo giá
trị vốn có của nó. Mặt khác, tập trung các
truyện Nôm bình dân có tính cách phổ biến
nhất (truyện Thạch Sanh, truyện Trinh
thử) vốn đã gần gũi với nhân dân lao
động, được tô chuốt thêm khía cạnh
“chống các thế lực phong kiến thối nát”:
“bên cạnh tính chất trữ tình là tính chất
hiện thực. Truyện Nôm (khuyết danh)
không chỉ là một lời than tiêu cực, mà còn
là một lời tố cáo, một lời phản kháng đối
với xã hội đương thời. Cho nên truyện
NGHIÊN CỨU TRUYỆN NÔM BÁC HỌC TRÊN CHIỀU LỊCH ĐẠI
54
Nôm có một giá trị phản phong ở mức độ
nhất định” (Nguyễn Hồng Phong, 2005, p.
549). Những nội dung trên cũng là những
phần quan trọng trong các công trình văn
học sử Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam –
xuất bản năm 1957, của nhóm Văn Tân,
Nguyễn Hồng Phong, Lược thảo lịch sử
văn học Việt Nam- xuất bản năm 1957, của
nhóm Lê Quý Đôn) mà dấu vết của nó còn
thể hiện khá sâu đậm trong các công trình
văn học sử về sau này. Điểm đặc biệt nữa
trong quan niệm văn học giai đoạn này là
nhận định về chiều ảnh hưởng của hai xu
hướng: bác học và bình dân/ dân gian. Đó
là xu hướng văn học dân gian ảnh hưởng
đến các truyện Nôm từ tính trữ tình, tính
hiện thực đến yếu tố lãng mạn và anh hùng
ca. Đây là một nhận diện nhiều ý nghĩa
trên nhiều mặt. Thứ nhất, chính gợi ý về
chiều ảnh hưởng từ dân gian này đã để lại
ảnh hưởng tới các xu hướng nghiên cứu
hiện đại về truyện Nôm của các tác giả như
Kiều Thu Hoạch (Kiều Thu Hoạch, 2007),
Cao Huy Đỉnh (Cao Huy Đỉnh, 2003)
Ở miền Nam cũng diễn ra quá trình
tìm hiểu di sản truyện Nôm song song với
các giá trị văn hóa văn học khác. Đóng góp
dễ nhận thấy nhất là khuynh hướng sử văn
học với các tác giả Phạm Việt Tuyền
(1965), Hà Như Chi (1951), Thạch Trung
Giả (1973), Thanh Lãng (1953, 1967),
Phạm Thế Ngũ (1963,1997), Phạm Văn
Diêu (1960) Nét nổi bật nhất trong các
công trình này chính là sự cởi mở trong
việc nhìn nhận giá trị các truyện Nôm (cả
truyện Nôm bình dân lẫn truyện Nôm bác
học). Tuy thế, cách phân chia hai khía cạnh
nội du