Nghiên cứu xây dựng hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập người khuyết tật ở Việt Nam

Tóm tắt. Giáo dục hòa nhập là xu thế tất yếu của tất cả quốc gia trên thế giới. Song ở mỗi nước, giáo dục hòa nhập được tiến hành theo các phương thức cũng như các giai đoạn khác nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Giáo dục hòa nhập ở Việt Nam với mô hình Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập được coi là yếu tố góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy chất lượng giáo dục hòa nhập người khuyết tật. Bài viết tập trung vào một số nội dung cơ bản: (i) Khái niệm trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập; (ii) Một số thông tin nghiên cứu về hệ thống hỗ trợ và trung tâm hỗ trợ trên thế giới; (iii) Tại sao nước ta lại xây dựng trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập; (iv) Một số giải pháp quản lý xây dựng trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập ở nước ta giai đoạn hiện nay.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 87 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu xây dựng hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập người khuyết tật ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1075.2015-0135 Educational Sci., 2015, Vol. 60, No. 6BC, pp. 260-267 This paper is available online at NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG TRUNG TÂM HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC HÒA NHẬP NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM Nguyễn Đức Hữu Vụ Giáo dục Tiểu học, Bộ Giáo dục và Đào tạo Tóm tắt. Giáo dục hòa nhập là xu thế tất yếu của tất cả quốc gia trên thế giới. Song ở mỗi nước, giáo dục hòa nhập được tiến hành theo các phương thức cũng như các giai đoạn khác nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. Giáo dục hòa nhập ở Việt Nam với mô hình Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập được coi là yếu tố góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy chất lượng giáo dục hòa nhập người khuyết tật. Bài viết tập trung vào một số nội dung cơ bản: (i) Khái niệm trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập; (ii) Một số thông tin nghiên cứu về hệ thống hỗ trợ và trung tâm hỗ trợ trên thế giới; (iii) Tại sao nước ta lại xây dựng trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập; (iv) Một số giải pháp quản lý xây dựng trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập ở nước ta giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Giáo dục hòa nhập, giáo dục chuyên biệt, hỗ trợ, người khuyết tật, trung tâm hỗ trợ. 1. Mở đầu Từ thập kỉ 60, 70 của thế kỉ XX, thế giới đã có nhiều phong trào về quyền của người khuyết tật (NKT). Sang thập kỉ 80, 90 có những cam kết toàn cầu về sự bình đẳng cơ hội của NKT,... Các tuyên bố, tuyên ngôn quốc tế đã lần lượt ra đời, ghi nhận quyền của NKT về cơ hội bình đẳng giáo dục. Hiệp ước Quốc tế các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hoá (1966) đề cập đến nguyên tắc công bằng, nhấn mạnh đến trách nhiệm của các Chính phủ trong việc đảm bảo cho mọi trẻ em được tiếp cận giáo dục với một chất lượng có thể chấp nhận. Hiệp ước chỉ rõ, Quyền được giáo dục là một điều tiên quyết để phát triển con người và cơ bản cho phẩm chất con người. Tất cả mọi người, không kể là có khả năng lĩnh hội học tập hay không đều có quyền được hưởng một nền giáo dục. Các trích dẫn trong tuyên bố Salamanca đã chỉ ra xu thế phát triển cơ bản của giáo dục NKT đó là: 1) Giáo dục phải hướng tới cơ hội bình đẳng cho NKT trong các lớp học chính qui, thông qua phát triển các trường hoà nhập NKT; 2) Trường chuyên biệt đã hình thành cần thiết phát triển và mở rộng chức năng hỗ trợ chuyên môn cho các trường phổ thông; 3) Chú trọng hình thành các Trung tâm hỗ trợ giáo dục hòa nhập NKT và phát triển các trường hoà nhập [6]. Ngày nhận bài: 25/5/2015. Ngày nhận đăng: 16/8/2015. Tác giả liên lạc: Nguyễn Đức Hữu, địa chỉ e-mail: ndhuu@moet.edu.vn 260 Nghiên cứu xây dựng hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập người khuyết tật ở Việt Nam Ba xu thế trên thể hiện rõ định hướng của UNESCO đó là (i) không khuyến khích phát triển hình thức giáo dục chuyên biệt; (ii) tăng cường phát triển giáo dục hòa nhập (GDHN); (iii) xây dựng mới các Trung tâm hỗ trợ GDHN NKT. Đồng thời, mở rộng, chuyển trọng tâm chức năng hỗ trợ giáo dục cho các trường phổ thông về giáo dục NKT cho các trung tâm hỗ trợ. Các chỉ dẫn này của UNESCO cùng với nhu cầu chăm sóc, giáo dục ngày càng cao của NKT thông qua việc xây dựng và tổ chức hoạt động của hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN đang được Việt Nam áp dụng vào thực tiễn và đã có chuyển biến tích cực trong thời gian qua. Tính đến thời điểm hiện tại, đã có hơn mười trung tâm hỗ trợ được thành lập và hầu hết các trường chuyên biệt đang chuyển dần từ phương thức chuyên biệt sang phương thức hỗ trợ NKT trong cả nước. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Thế nào là trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN Có nhiều cách hiểu khác nhau về trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN trên thế giới và ở Việt Nam. Theo nghiên cứu của các tác giả S.M Naicker [2], Lê Văn Tạc [5], Nguyễn Xuân Hải và các tác giả [3], tên gọi phổ biến của trung tâm hỗ trợ là trung tâm nguồn (được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh là Resource Center) và tên gọi này được sử dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, thuật ngữ trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN lần đầu tiên xuất hiện tại Quyết định số 23 ngày 20/5/2006 của Bộ GD&ĐT và sau đó là ở các văn bản pháp quy của nước ta, cao nhất là được quy đinh tại Điều 31 của Luật Người khuyết tật. Cũng theo các tác giả trên, có các loại trung tâm hỗ trợ khác nhau dựa trên những căn cứ khác nhau: - Căn cứ vào chức năng, (i) Trung tâm hỗ trợ chỉ thực hiện duy nhất chức năng hỗ trợ cho NKT và các đối tượng liên quan đến NKT như gia đình, cộng đồng, các tổ chức xã hội. Trung tâm hỗ trợ hoàn toàn không có chức năng chuyên biệt (chăm sóc, giáo dục NKT tại trung tâm); (ii) Trung tâm hỗ trợ vừa thực hiện chức năng hỗ trợ (như trên), đồng thời lại thực hiện chức năng chuyên biệt (chăm sóc, giáo dục NKT ở mức độ rất nặng tại trung tâm). - Căn cứ vào đối tượng thụ hưởng trực tiếp (NKT): (i) Trung tâm hỗ trợ cho NKT các dạng khuyết tật khác nhau (khuyết tật nhìn; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật vận động;...); (ii) Trung tâm hỗ trợ chuyên ngành, tức là chỉ hỗ trợ cho những NKT có một dạng khuyết tật duy nhất. Trên cơ sở các nghiên cứu lý luận, thực tiễn xây dựng và vận hành một số trung tâm hỗ trợ trong giai đoạn vừa qua, khái niệm Trung tâm hỗ trợ ở nước ta thống nhất được hiểu theo Luật Người khuyết tật 2010, Điều 31: “Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập là cơ sở cung cấp nội dung chương trình, thiết bị, tài liệu dạy và học, các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ giáo dục, tổ chức giáo dục phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh của NKT” [4]. 2.2. Một số kết quả nghiên cứu về trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN và hệ thống hỗ trợ giáo dục NKT trên thế giới Trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN và hệ thống hỗ trợ giáo dục NKT đã được nghiên cứu, xây dựng và vận hành trong thực tiễn ở rất nhiều các quốc gia trên thế giới như Thái Lan, Phillipines, Nam Phi,... [1]. 261 Nguyễn Đức Hữu * Trung tâm Giáo dục đặc biệt ở Thái Lan Theo Báo cáo của Benja Chonlatanon, Chánh thanh tra Bộ Giáo dục Thái Lan vào ngày 25/6/2006, Thái Lan có 13 trung tâm giáo dục đặc biệt khu vực thuộc sự quản lý của Vụ Giáo dục phổ thông, Bộ Giáo dục và 63 Trung tâm giáo dục đặc biệt cấp tỉnh. Chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm khu vực gồm: i) Lập kế hoạch, thực hiện Kế hoạch giáo dục đặc biệt dựa trên Kế hoạch giáo dục quốc gia; ii) Tuyên truyền và thông tin về Trung tâm giáo dục cho NKT và gia đình NKT, đồng thời, tư vấn hỗ trợ cho các lĩnh vực khác thuộc giáo dục đặc biệt; iii) Xây dựng và cung cấp chương trình, tài liệu về giáo dục đặc biệt; iv) Bồi dưỡng giáo viên, nhân viên chăm sóc, nhân viên hỗ trợ, cán sự xã hội và những người liên quan khác; v) Can thiệp sớm, trang bị kiến thức và kỹ năng tiền học đường cho NKT trước khi đi học phổ thông; vi) Giám sát và đánh giá các dịch vụ giáo dục đặc biệt thuộc địa bàn phụ trách của Trung tâm; vii) Huy động nguồn lực và ngân sách để hỗ trợ Trung tâm thực hiện nhiệm vụ thuộc địa bàn phụ trách; viii) Hợp tác với các tổ chức thuộc lĩnh vực giáo dục NKT. Bên cạnh đó, luôn có sự phối hợp chặt chẽ giữa trung tâm và các trường phổ thông về khía cạnh tư vấn chuyên môn: nội dung, chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, đào tạo và bồi dưỡng,... Thực tiễn, hình thức giáo dục chuyên biệt vẫn tồn tại và tương đối phát triển tại các Trung tâm của Thái Lan, các chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm vùng là những vấn đề cần được cân nhắc khi vận dụng cho các phương thức hoạt động Trung tâm hỗ trợ ở nước ta. * Hệ thống hỗ trợ giáo dục NKT của Philippines [3] Công tác giáo dục NKT ở Philippines đã được pháp quy hoá từ rất sớm so với Việt Nam như: Luật Batas Pambansa Blg số 344 năm 1984, Đạo luật quốc gia số 6759 năm 1989, Đạo luật quốc gia số 7277 năm 1991. Hệ thống hỗ trợ NKT bao gồm: (i) Hội đồng quốc gia vì phúc lợi của NKT; (ii) Bộ Phúc lợi xã hội và Phát triển; (iii) Bộ Y tế; (iv) Bộ Giáo dục; (v) Nhóm phát triển các kỹ năng giáo dục kỹ thuật; (vi) Bộ Lao động và Việc làm; (vii) Bộ Công trình công cộng và Bộ Giao thông và Bưu chính viễn thông; (viii) Bộ Tư pháp. Là các tổ chức chính trị, những tổ chức này quan hệ chặt chẽ với Hội NKT và các tổ chức phi chính phủ hướng tới một xã hội dựa trên cơ sở quyền của NKT. Chính phủ là cơ quan cao nhất và chịu trách nhiệm điều phối mọi hoạt động giáo dục NKT. Đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự vận hành của toàn bộ hệ thống hỗ trợ đối với NKT. Giáo dục NKT ở Philippines được tổ chức thành hệ thống và phân định chức năng cụ thể cho các ngành, lĩnh vực có liên quan, không có sự chồng chéo và mang tính phối hợp cao. * Sự chuyển đổi từ hệ thống các trường chuyên biệt thành trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN ở Nam Phi Kết quả nghiên cứu về vấn đề này tại Nam Phi do Bộ GD&ĐT nước này tiến hành đã cho thấy [2], các trường chuyên biệt được coi như là trung tâm hỗ trợ được chỉ rõ trong Điều luật VI về Giáo dục nhu cầu đặc biệt của Chính phủ: Xây dựng một hệ thống đào tạo và GDHN nhằm tạo ra một sự biến đổi cơ bản. Rất nhiều đề xuất cần coi các trường chuyên biệt như là trung tâm hỗ trợ trở thành cơ sở hỗ trợ vững chắc cùng với nhóm hỗ trợ cấp huyện cho các trường phổ thông và trường nguồn. Các trường chuyên biệt được coi như là trung tâm hỗ trợ dựa trên 3 sự chuyển giao quan trọng: (i) Chuyển từ mô hình y tế sang mô hình GDHN; (ii) Chuyển từ sự phân loại mức độ khuyết tật sang mức độ hỗ trợ và vai trò của trường chuyên biệt thành trung tâm hỗ trợ; (iii) Phát triển tài 262 Nghiên cứu xây dựng hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập người khuyết tật ở Việt Nam liệu nhằm hỗ trợ cho việc học tập và đánh giá nhu cầu. Điều luật VI cũng đã đưa ra: a) Khung khái niệm; b) Khung hành động; c) Rất nhiều vai trò mới của trường chuyên biệt như là trung tâm nguồn. Nhóm hỗ trợ cấp huỵện hình thành trên cơ sở được tổ chức và đào tạo về chuyên môn hỗ trợ giáo dục NKT trong các trường phổ thông. Để hỗ trợ các trường phổ thông, Trung tâm hỗ trợ phối hợp với nhóm hỗ trợ cấp huyện cung cấp dịch vụ giáo dục đáng kể cho toàn bộ số lượng học sinh có nhu cầu hỗ trợ cao. Hơn nữa, trung tâm hỗ trợ sẽ cùng với các nhóm hỗ trợ cấp huyện để cung cấp sự hỗ trợ chuyên biệt về chuyên môn, chương trình, đánh giá, hướng dẫn đối với các trường nguồn và những trường phổ thông khác. Hoạt động của Trung tâm hỗ trợ cần dựa vào sự hỗ trợ của cộng đồng. Sự hỗ trợ ở đây được hiểu bao gồm tất cả các nguồn nhân lực và dịch vụ: Giáo viên, học sinh, cha mẹ trẻ, thành viên cộng đồng, các nhà tâm lí, cán sự xã hội, trị liệu, các tổ chức xã hội, y tế, tổ chức thanh niên, tôn giáo, tổ chức phi chính phủ, cũng như các cá nhân khác. 2.3. Sự cần thiết của xây dựng trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN ở nước ta Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thuộc lĩnh vực đã chỉ ra những lí do chủ yếu của việc xây dựng trung tâm hỗ trợ ở nước ta như sau [3,5]: * Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn giáo dục NKT ⋆ Phương thức giáo dục chuyên biệt đã tồn tại trong một thời gian tương đối dài ở Việt Nam từ đầu những năm 1905, mặc dù không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới song mô hình này đã thể hiện được vai trò của mình đối với giáo dục NKT, thể hiện ở những điểm tích cực sau: - Có một đội ngũ giáo viên có kỹ năng chuyên sâu cho từng dạng NKT, công tác chăm sóc, giáo dục NKT trong các cơ sở chuyên biệt được thực hiện một cách hết sức cụ thể, chi tiết. - Được trang bị cơ sở vật chất tương đối đầy đủ nhằm phát triển đến mức tối đa những khả năng về trí tuệ và thể chất cho NKT. - Giải quyết được một phần dù nhỏ NKT được chăm sóc, học tập, đặc biệt là những NKT điển hình (khuyết tật nặng). - Một số cơ sở chuyên biệt có khả năng đáp ứng nhu cầu học nghề, cơ hội việc làm cho thanh thiếu niên khuyết tật. - Đáp ứng nhu cầu một số lượng nhỏ các gia đình có điều kiện kinh tế, mong muốn con khuyết tật của họ có thể trở lại cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, giáo dục chuyên biệt đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế sau: - NKT được chăm sóc, giáo dục trong môi trường hết sức hạn chế, ít có cơ hội tiếp xúc, giao lưu với cuộc sống bên ngoài. Đa số NKT sau khi phải rời khỏi cơ sở chuyên biệt không thích ứng được với cuộc sống thường nhật. - Chỉ đáp ứng cho một số lượng rất nhỏ NKT được đi học do chi phí lớn cho xây dựng cơ sở vật chất, đa số gia đình không đủ điều kiện kinh tế cho NKT đi học, NKT phải sống xa gia đình,... - Một số gia đình coi cơ sở chuyên biệt là nơi gửi NKT, thiếu sự quan tâm và không có sự phối hợp chăm sóc, giáo dục; - Khó khăn trong giải quyết cuộc sống sau này sau khi NKT hết thời gian học tập và sinh hoạt trong cơ sở. 263 Nguyễn Đức Hữu ⋆ GDHN NKT ở Việt Nam được thực hiện từ những năm đầu 90 của thế kỷ XX. Những thành tựu của GDHN được thể hiện trên một số mặt cơ bản sau: - Đáp ứng cho nhu cầu được đi học của phần đông NKT. - Phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của từng địa phương, đặc biệt là phù hợp với điều kiện kinh tế, sinh hoạt của hầu hết các gia đình có NKT. - NKT được học tập, hoạt động, vui chơi trong môi trường ít hạn chế nhất, được phát triển đầy đủ không chỉ về kiến thức mà còn phát triển về các kỹ năng sống. - Quan điểm về khả năng phát triển của NKT dần thay đổi theo hướng tích cực, NKT ngày càng được thừa nhận và được xã hội quan tâm, tạo cơ hội phát triển. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận một số những mặt còn hạn chế qua hơn 20 năm thực hiện GDHN NKT ở Việt Nam. - Trước hết, đội ngũ giáo viên dạy học hoà nhập chưa thực sự có được những kiến thức và kỹ năng chuyên sâu. Điều này có thể do những nguyên nhân khác nhau, giáo viên chưa được đào tạo cơ bản, không có đủ thời gian, chưa có được chính sách khuyến khích đủ mạnh tạo động lực, các điều kiện đảm bảo cho tổ chức hoạt động giáo dục và dạy học hoà nhập NKT,... - Mặc dù có nhiều cơ hội phát triển về mặt xã hội, một số lượng lớn được đi học, song rõ ràng NKT còn bị hạn chế lớn về kiến thức, chất lượng GDHN chưa cao. - Đến nay, GDHN mới chỉ giải quyết tập trung vào đối tượng NKT cấp tiểu học trong khi đối tượng thanh thiếu niên khuyết tật hiện đang tồn tại và số lượng NKT sẽ lớn lên chưa có cơ hội để học tập ở bậc cao hơn. Việt Nam đang đứng trước một thời đại nhiều cơ hội cũng như thách thức, nhưng xu thế là tiến tới mục tiêu giải phóng con người, làm cho mọi năng lực trong mỗi con người được phát huy tối đa, sự tự do phát triển của mỗi người và của toàn xã hội. Một xã hội học tập được thể hiện bằng hình thức học tập thường xuyên, học tập suốt đời không chỉ còn là khẩu hiệu mà đã đi vào thực tiễn. GDHN là sự lựa chọn tối ưu và xu thế tất yếu không chỉ đối với NKT. Sự hình thành và ra đời của Trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN sẽ tận dụng các yếu tố tích cực của giáo dục chuyên biệt, khắc phục hạn chế và hỗ trợ hiệu quả cho GDHN. * Tạo sự hợp tác giữa các ban ngành trong giáo dục NKT Thực hiện mục tiêu giáo dục NKT không chỉ là nhiệm vụ của ngành giáo dục, điều này còn đòi hỏi có sự phối hợp chặt chẽ của gia đình và sự tham gia của cộng đồng, của các ban ngành đoàn thể xã hội cũng như những người tình nguyện và sự hỗ trợ của mọi người dân. Thái độ tích cực của cha mẹ trẻ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giáo dục ở nhà trường và ngoài xã hội. Vai trò của gia đình và cha mẹ NKT được tăng cường khi họ được cung cấp đầy đủ thông tin đơn giản, dễ hiểu về cách chăm sóc, giáo dục con họ. Sự phối hợp của cán bộ quản lý nhà trường, cha mẹ trẻ và giáo viên phải thực hiện trên cơ sở hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, coi cha mẹ trẻ là đối tác tích cực đưa ra quyết định. Vai trò tích cực của nhóm hỗ trợ cộng đồng thể hiện bằng những công việc cụ thể như: hỗ trợ NKT học tập ở nhà, luyện tập phục hồi chức năng, bù đắp cho sự thiếu hỗ trợ NKT từ phía gia đình và phát triển những khả năng còn lại của NKT,... Các tổ chức và cá nhân tình nguyện có vai trò hết sức to lớn trong hỗ trợ về tinh thần và vật chất cho NKT và gia đình NKT; nâng cao ý thức, trách nhiệm của cộng đồng về vấn đề chăm sóc, 264 Nghiên cứu xây dựng hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập người khuyết tật ở Việt Nam giáo dục NKT; đề xuất những nhu cầu của gia đình NKT với các cơ quan chức năng để có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ,... * Phù hợp với xu thế thời đại Cương lĩnh hành động về nhu cầu giáo dục đặc biệt được phê chuẩn tại Hội nghị Thế giới về Giáo dục cho mọi người tại Salamanca từ 7-10/6/1994 mà Việt Nam là thành viên, đã nêu rõ [6]: “Đưa trẻ vào các trường chuyên biệt, hay vào các lớp học chuyên biệt trong thời gian dài là trường hợp bất đắc dĩ và chỉ nên thực hiện khi có bằng chứng rõ ràng là việc học tập ở trong các lớp chính quy không có khả năng đáp ứng nhu cầu giáo dục và xã hội của trẻ và khi cần thiết cho lợi ích của trẻ đó hay trẻ khác”. “ Các trường chuyên biệt có thể trở thành những nguồn lực có giá trị cho việc xây dựng, phát triển trường học hoà nhập,... Đầu tư vào các trường chuyên biệt phải hướng vào vai trò mới và mở rộng, đó là thực hiện hỗ trợ về mặt chuyên môn cho các trường phổ thông trong việc đáp ứng nhu cầu đặc biệt của trẻ”. “ Các nước có ít hoặc không có trường chuyên biệt, thì nên tập trung nỗ lực của mình vào việc phát triển các trường hoà nhập và hỗ trợ chuyên môn cần thiết để giúp các trường này có thể đáp ứng các nhu cầu của đại đa số trẻ em, đặc biệt là bồi dưỡng giáo viên cho giáo dục theo nhu cầu giáo dục đặc biệt và hình thành các trung tâm hỗ trợ có đầy đủ cán bộ và trang thiết bị cần thiết để các trường có thể tìm đến khi cần giúp đỡ,...”. 2.4. Một số giải pháp quản lý xây dựng trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN Thực hiện định hướng của Bộ GD&ĐT, đến năm 2020 mỗi tỉnh có ít nhất một trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN cấp tỉnh và cùng với kết quả nghiên cứu này, chúng tôi có một số đề xuất cho các tỉnh/thành trong cả nước khi thành lập và tổ chức hoạt động của trung tâm hỗ trợ sau đây: * Thực hiện nội dung các văn bản quy định về thành lập và tổ chức hoạt động của Trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN Quyết định số 23/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 22/5/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định về GDHN dành cho người tàn tật, khuyết tật. Đây được coi là văn bản pháp quy đầu tiên của Bộ GD&ĐT hướng dẫn thực hiện GDHN NKT ở các nhà trường mầm non, phổ thông. Thông tư số 39/2009/TT-BGDĐT ngày 29/12/2009 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quy định GDHN cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. GDHN không chỉ dành riêng cho NKT mà còn được mở rộng đối tượng trẻ em có hoàn cảnh khó khăn khác. Luật NKT số 51/2010/QH12 ngày 17/6/2010 do Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành và có hiệu lực chính thức vào ngày 01/01/2011. Đồng thời, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật. Thông tư liên tịch số 58/2012/TTLT-BGDĐT-BLĐTBXH ngày 28/12/2012 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, Bộ LĐTB&XH ban hành Quy định điều kiện và thủ tục thành lập, hoạt động, đình chỉ hoạt động, tổ chức lại, giải thể trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN. Thông tư liên tịch số 42/2013/TTLT-BGDĐT-BLĐTHXH-BTC ngày 31/12/2013 quy định chính sách về giáo dục đối với người khuyết tật. Hệ thống các văn bản pháp quy của Việt Nam đến nay đã tương đối hoàn thiện, đủ tạo môi trường pháp lý thúc đẩy hơn nữa việc thành lập và tổ chức hoạt động trung tâm hỗ trợ phát triển 265 Nguyễn Đức Hữu GDHN ở nước ta. * Thực hiện một số các giải pháp quản lý thúc đẩy việc thành lập và tổ chức hoạt động của trung tâm hỗ trợ phát triển GDHN (i) Sở GD&ĐT và Ban chỉ đạo Giáo dục trẻ khuyết tật và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn của Sở cần coi Trung tâm hỗ trợ là một đơn vị chuyên môn của Sở GD&ĐT thực hiện chức năng tham mưu, tư vấn, lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, hỗ trợ trong giám sát hoạt động chăm sóc, giáo dục TKT trên toàn địa bàn tỉnh/thành phố. (ii) Trên thế giới và ở Việt Nam đã có kinh nghiệm trong thành lập và tổ chức hoạt động mô hình trung tâm hỗ trợ, các tỉnh đã có và chưa có trung tâm hỗ trợ đều cần tổ chức các chuyến học tập kinh nghiệm về vấn đề này ở Việt Nam (cả nước ngoài nếu điều kiện cho phép) và bám sát thực hiện các văn bản pháp quy, đặc biệt là Điều 31 của Luật Người khuyết tật 2010 và Thôn
Tài liệu liên quan