1. Đặt vấn đề
Trong số những trí thức Nho học Việt Nam thời phong kiến, Ngô Thì Nhậm
(1746 - 1803) là nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà văn hóa tiêu biểu. Ông thực sự là một trí
thức yêu nước và thức thời, đã có những cống hiến hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của lịch sử dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Thì Nhậm xứng đáng
được các thế hệ người Việt Nam mãi mãi ghi công, tự hào và quan tâm nghiên cứu,
học tập. Bài viết phác thảo chân dung và thành tựu tư tưởng triết học, giáo dục học
của người trí thức Nho học chân chính Ngô Thì Nhậm
12 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 59 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngô Thì Nhậm - Người trí thức Nho học chân chính, nhà tư tưởng lỗi lạc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci. Science., 2010, Vol. 55, No. 7, pp. 60-71
NGÔ THÌ NHẬM - NGƯỜI TRÍ THỨC
NHO HỌC CHÂN CHÍNH, NHÀ TƯ TƯỞNG LỖI LẠC
Nguyễn Bá Cường
Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Đặt vấn đề
Trong số những trí thức Nho học Việt Nam thời phong kiến, Ngô Thì Nhậm
(1746 - 1803) là nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà văn hóa tiêu biểu. Ông thực sự là một trí
thức yêu nước và thức thời, đã có những cống hiến hết sức quan trọng đối với sự
phát triển của lịch sử dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Thì Nhậm xứng đáng
được các thế hệ người Việt Nam mãi mãi ghi công, tự hào và quan tâm nghiên cứu,
học tập. Bài viết phác thảo chân dung và thành tựu tư tưởng triết học, giáo dục học
của người trí thức Nho học chân chính Ngô Thì Nhậm.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Hành trạng của người trí thức Ngô Thì Nhậm trong bước
ngoặt lịch sử dân tộc
Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm Bính Dần (1746), thuở nhỏ tên là
Phó, sau đổi tên là Nhậm, tự là Hy Doãn, hiệu Đạt Hiên, đạo hiệu Thiền học là
Hải Lượng. Ông xuất thân từ thế gia vọng tộc, “đời đời theo nghiệp nho, khoa bảng
công danh” [6;677] ở một làng quê có truyền thống văn hiến - làng Tả Thanh Oai
(tục gọi là làng Tó), huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay thuộc huyện Thanh Trì,
Thành phố Hà Nội). Ngô Thì Nhậm là con trai cả của Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) -
người có tài từ chương nổi tiếng, công danh hiển đạt “hiếm có xưa nay”.
2.1.1. Thời niên thiếu và những bước đường trưởng thành của Ngô Thì
Nhậm
Ảnh hưởng của gia tộc trong nếp sống, lối nghĩ, nên ngay từ khi còn nhỏ, Ngô
Thì Nhậm đã giữ được nền nếp học hành, lớn lên đã xác định phải là một trung
thần, là người con có hiếu, phải “lấy nhân nghĩa làm sào chống, trung tín làm bánh
lái (Nhân nghĩa vi cao trung tín đà)” [7;360].
60
Ngô Thì Nhậm - người trí thức nho học chân chính, nhà tư tưởng lỗi lạc
Ngô Thì Nhậm “bản tính sớm thông minh”, 7 tuổi bắt đầu đi học, đến năm 11
tuổi được cụ nội là Ngô Trân dạy dỗ; 14 tuổi, đã đọc thông các loại Kinh, Truyện,
Sử và Tính lý. Do thông minh, lại cần cù học tập cùng với truyền thống gia tộc và
dưới sự dìu dắt, hướng dẫn của cha, Ngô Thì Nhậm đã thể hiện tài năng ở tuổi 16
qua việc soạn sách Nhị thập thất sử toát yếu. Năm 17 tuổi, ông được “sát hạch ở
trường huyện, hai lần đều chiếm hạng ưu” [6;27]. Cũng trong năm này, mẹ ông mất
ở tuổi 33, để lại 5 người con, gánh nặng gia đình đặt lên vai cha và Ngô Thì Nhậm.
Năm sau, ông lấy vợ là Ngô Thị Anh để lo việc gia đình và tiếp tục học tập. Năm
20 tuổi, ông đến theo học thầy Đan Sĩ là Tham chính Thanh Hoa và cũng năm đó,
thân phụ Ngô Thì Sĩ đỗ Hoàng giáp. Năm 21 tuổi, Ngô Thì Nhậm soạn cuốn Tứ gia
thuyết phả.
Tài năng của Ngô Thì Nhậm ngày càng được chứng tỏ qua các khoa thi, đúng
như lời chúa Trịnh khen là “tài học không ở dưới người”. Năm 23 tuổi, ông thi Hương
đỗ Giải nguyên, năm sau (1769), đỗ khoa Sĩ vọng, được bổ chức Hiến sát phó sứ
Hải Dương (hàm Chánh thất phẩm). Với phong thái nhà nho, ông “làm quan thanh
liêm, giản dị, thường mở lớp dạy học, học trò theo học rất đông”. Năm 1771, nhân
việc Ngô Thì Sĩ bị cách chức do triều thần ghen ghét, ông cũng xin cáo quan về nhà,
lấy cớ sớm hôm phụng dưỡng cha. Năm 1772, ông dự khảo khóa ở Quốc Tử Giám,
đỗ hạng ưu, lấy lý do ốm không ra làm quan. Cũng năm ấy, ông viết xong cuốn Hải
Dương chí lược [6;27-28].
Vào đúng tuổi 30 - “tam thập nhi lập”, Ngô Thì Nhậm thi đỗ Đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân, đứng hàng thứ 5, được bổ làm Hộ bộ Đô cấp sự trung. Năm
sau, ông được thăng chức Giám sát Ngự sử đạo Sơn Nam, rồi được bổ làm Giám
khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Năm 1778, ông được thăng chức Đốc đồng
Kinh Bắc. Một sự kiện hiếm có diễn ra trong năm đó là hai cha con cùng đi nhậm
chức một ngày (Ngô Thì Sĩ nhậm chức Đốc trấn Lạng Sơn). Ngô Thì Nhậm làm
thơ thể hiện rõ ý chí nam nhi, quyết “không làm chiếc đèn cù quay trong viện thanh
u”, không khom lưng hưởng lộc,. . . mà bằng chính tài năng của mình để được trọng
dụng vào việc nước.
Xã hội thời thời Lê - Trịnh nảy sinh đầy rẫy những bi kịch, nhân sinh quan
yếm thế tiêu cực nổi lên hàng đầu. Ông nhận thấy nguyên nhân của tình hình đó là
do con người gây ra, do các chính sách của triều đình. Đây là một cách nhìn nhận
mới mẻ, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng Nho giáo phong kiến coi mệnh
trời quy định sự hưng thịnh, suy vong của triều đại và xã hội. Thời gian này, Ngô
Thì Nhậm vẫn không quên làm giáo dục và có thể, do phải biên soạn sách để giảng
dạy cho Thế tử Trịnh Tông mà ông đã hoàn thành và cho in sách Tự học toản yếu.
Bài Tựa cho thấy ông không chỉ có đóng góp trong việc phát triển ngữ âm và cấu
tạo chữ Nôm mà còn bảo vệ được bản sắc văn hiến của dân tộc. Năm 1781, ông
61
Nguyễn Bá Cường
soạn xong cuốn Thánh triều giám thư do chúa Trịnh giao, được trọng thưởng và ban
thêm chức. Đứng trước cảnh suy tàn, rối ren của triều đình, ông nhất định không
sống xu nịnh mà tỏ rõ sự vững vàng, kiên định, “dốc hết tâm lực của mình đối với
sự biến hóa của khí vận” [6;823]. Đây là một quan niệm sống lạc quan, trọng nghĩa,
có trách nhiệm với đời. Bởi thế, Trịnh Sâm coi ông như “tuấn mã”, làm được việc
nhưng khó tính và không để người ta sai khiến [6;727].
Tháng 10 năm 1782, ngay sau khi chúa Trịnh Sâm mất được một tháng, loạn
kiêu binh nổ ra, Trịnh Tông lên ngôi. Những người bị cho là đứng về phe tố giác vụ
án năm Canh Tý (1780) khiến cho Trịnh Tông bị giáng làm con thứ, không được
nối ngôi, đều bị bắt giết. Trước đó bị dư luận gán ghép là có liên quan đến vụ án
nên lúc này Ngô Thì Nhậm đành ẩn lánh về quê vợ ở Sơn Nam (huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình). Trong nhiều bài viết, Ngô Thì Nhậm thậm chí đã phải dựa vào thần
linh và trời đất để bày tỏ nỗi oan bị hiềm nghi liên đới vụ án này [6;721-735].
2.1.2. Thời kỳ “gửi lòng mình vào tĩnh lặng”, Ngô Thì Nhậm quyết tâm
chờ thời hành đạo
Trong thời gian lánh nạn (1782-1786), ở nhiều tác phẩm, Ngô Thì Nhậm đề
cập đến những vấn đề rộng lớn của vũ trụ và nhân sinh, thể hiện tư tưởng tích cực,
dạt dào sức sống và ý chí của một tài năng lớn chứ không mang sắc thái yếm thế
Lão - Trang. Lánh đời ở ẩn, nhưng ông không hề “trốn đời” mà vẫn luôn đau đáu
một niềm giúp dân, giúp nước. Ông cho rằng, “phàm kẻ sĩ quân tử việc làm như
rồng như rắn, tùy cảnh mà yên, hiển thì làm cho thiên hạ đều hay, ẩn tàng thì dạy
bảo học trò” [6;816]. Vì thế, ông vẫn một mực theo Nho giáo: “Chỉ theo hướng Thi,
Thư; Khỏi trái đường “danh giáo”, quyết tâm chờ thời cơ để nhập thế hành đạo. Với
ông, đây là thời kỳ, “gửi lòng mình vào tĩnh lặng, gác mọi việc vào vô vi. Ngọc tốt
dấu kín nơi sâu, rồng thần lặn không kẻ thấy” để “chờ khi người biết đến mình”, thì
“chí lớn nọ đem ra vùng vẫy, giúp tám cực chuyển xoay, vỗ về chín cõi yên rường
mối. . . ” [6;355-356].
Trong bài Tự hối (tự răn mình), Ngô Thì Nhậm luôn nhắc nhở mình ngày
đêm cần kính trọng và làm theo giáo hóa của Khổng Mạnh: trung thành hướng về
cõi quang minh chính đại, không làm những điều bất nghĩa để được hưởng danh
lợi, giàu sang [6;240,241]. Ông xác định đây là lúc cần lục tìm lại sử sách để ngẫm
nghĩ và xử thế đời nay. Năm 1786, ông viết xong sách Xuân Thu quản kiến - cuốn
sách dài “ước chừng vài mươi vạn lời”. Tuy ví mình tựa như “ông lão trong mây,
tiêu nhàn ngao du” nhưng ông vẫn chăm chỉ khảo cứu sách cổ và miệt mài dạy học
(“Vui với tuổi trẻ đã có sáu bảy học trò” [6;292]). Cũng trong thời gian này, ông sáng
tác Tiêu dao du phú bày tỏ tấm lòng son của mình và nêu những quan niệm về vụ
trụ, nhân sinh mà qua đây có thể hiểu được thực chất con người Ngô Thì Nhậm.
62
Ngô Thì Nhậm - người trí thức nho học chân chính, nhà tư tưởng lỗi lạc
Với “đức mới, lòng mới”, ông nguyện sẵn sàng “giặt mũ, rửa chân” để thể hiện khả
năng như “chim bằng cưỡi gió” làm chuyển bánh xe lịch sử [6;367]. Trong chốn mênh
mông đi tìm thời đại mới lớn lao, ông luôn giữ gìn khuôn phép, đạo nhà và coi đây
là phương thuốc, là con đường hay nhất để chờ cơ hội ra giúp nước. Rõ ràng ông đã
thức thời nhận rõ cái “cơ khí thiêng mầu nhiệm” của tạo hóa và tin tưởng tương lai
tốt đẹp đang được khai mở với vua sáng, tôi hiền như sự gặp gỡ huyền diệu tương
ứng, tương cầu. Năm 1786, Nguyễn Huệ đánh đổ họ Trịnh, giao quyền bính lại cho
họ Lê. Ngô Thì Nhậm trở về kinh thành, được Lê Chiêu Thống mới nối ngôi vua
ban cho chức Hộ bộ Đô cấp sự trung, sau thăng Hiệu thảo kiêm Toản tu Quốc sử.
2.1.3. Thời kỳ Ngô Thì Nhậm góp sức xây dựng triều đại Quang Trung
Ngô Thì Nhậm đưa ra quan niệm sống phải hợp đạo, tùy thời: không câu nệ,
cố chấp dựa vào những tín điều xưa cũ mà phải thích ứng nhanh với thời cuộc đang
chuyển xoay dồn dập. Từ quan điểm triết học “đạo có thể thay đổi, thời có thể biến
thông”, ông xác định phải tùy thời, “nhân thời thế mà làm cách mạng” nên trước
hết phải rũ hết bỏ những truân chuyên thời dĩ vãng, kết nghĩa hòa mục, giao hảo
lân bang, phục hưng những điều tốt đẹp,. . . [7;643,652].
Xuất phát từ suy nghĩ tích cực đó, ông đã hành động dũng cảm dứt khoát từ
bỏ nhà Lê, lao mình vào phong trào cách mạng Tây Sơn. Năm 1788, Nguyễn Huệ
ra Bắc lần thứ hai, xuống lệnh truyền gọi các quan lại của triều đình Lê - Trịnh ra
giúp nước. Chính sách trọng dụng hiền tài của Nguyễn Huệ được Ngô Thì Nhậm
đón nhận ngay. Theo sự giới thiệu của Trần Văn Kỷ (danh sĩ đất Thuận Hóa, đang
là tâm phúc của Nguyễn Huệ), ông lập tức được “gây dựng lại”, “dùng làm việc lớn”,
được phong làm Lại bộ Tả thị lang, tước Tình phái hầu, giao việc (cùng với Võ Văn
Ước) coi tất cả quan văn võ nhà Lê. Đây là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời ông
và với quyết định sáng suốt, phù hợp với lịch sử, ông “đã có những cống hiến thực
sự lớn lao cho đất nước” [4;483]. Ngô Thì Nhậm “đã nêu một tấm gương bằng chính
hành động dứt khoát, xuất phát từ một nhận thức lý tính sâu sắc và từ động cơ
muốn đem tài sức ra cống hiến” cho dân tộc [2;41].
Nhà nho, nhà giáo Ngô Thì Nhậm lại tiếp tục sự nghiệp chính trị. Ông là
người có vai trò to lớn đối với nhà Tây Sơn khi trực tiếp thuyết phục các nhân sĩ trí
thức Bắc Hà đứng về phía nhân dân, vì lợi ích dân tộc mà tham gia đóng góp cho
sự nghiệp chính nghĩa, tiêu biểu là Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Thế Lịch,
Ninh Tốn, Nguyễn Đề, Trần Bá Lãm, Đoàn Nguyễn Tuấn,... Không chỉ giỏi nêu cao
chính nghĩa để thu phục nhân tài, nhân tâm, Ngô Thì Nhậm còn thể hiện tài năng
trong lĩnh vực quân sự khi nêu kế lui binh về Tam Điệp để bảo toàn lực lượng, chờ
đại quân của vua Quang Trung tới đánh bại quân Thanh. Cống hiến đó đã chứng
tỏ tầm vóc tư duy chiến lược quân sự của người trí thức Nho học Ngô Thì Nhậm.
63
Nguyễn Bá Cường
Sau trận Đống Đa toàn thắng, ngay lập tức, với trọng trách tham mưu của
Ngô Thì Nhậm, vua Quang Trung đã mở đường văn thư ngoại giao trao đổi với nhà
Thanh. Tập Bang giao hảo thoại (được coi là một kiệt tác văn học, kế tục được thần
thái, khí phách Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi) cùng với tài đàm phán
trực tiếp của Ngô Thì Nhậm đã “đưa đến việc Thanh Đế nhận Quang Trung làm An
Nam Quốc Vương, quên mất tham vọng thừa nước đục thả câu chiếm lĩnh phương
Nam”. Nhờ có ông mà “việc hòa hiếu được tiến hành mau lẹ và đầy vinh quang cho
Tây Sơn” [5;39]. Với thành công ngoại giao lần này vua Quang Trung đã thăng chức
cho ông làm Binh bộ Thượng thư (1790). Năm sau, ông lại được thăng Thị lang đại
học sĩ, gia ban Dực vận công thần. Năm 1792, ông được cử kiêm chức Thự Tổng tài
Quốc sử . Đối với ông, việc làm quan từ lâu đã được xác định không phải là để mưu
cầu bổng lộc, danh lợi cá nhân mà nhằm mục đích giúp dân, giúp nước: “Thân hèn
bấy nay đem ra giúp nước, Đêm đêm rong ruổi, đâu dám ngại ngần!” [8;259]
Hoạt động dưới cờ nghĩa của phong trào Tây Sơn do Quang Trung lãnh đạo,
Ngô Thì Nhậm ví mình như sóng biển “nhờ thế cưỡi gió” và nhận thấy ý nghĩa cuộc
sống vang vọng khắp non sông [7;361]. Trải qua những hoạt động tận tâm hiến dâng
cho đất nước trong hoàn cảnh gian nan đã giúp cho ông có được sự sáng suốt khi
làm việc triều chính. Dưới triều đại Quang Trung, ông có điều kiện phát huy được
tài năng và phẩm cách trong sáng của một nhà nho chân chính. Nhiều chủ trương
mới được ông truyền tải qua các văn kiện quan trọng, như Chiếu lên ngôi, Chiếu
xây dựng việc học, Chiếu cầu hiền tài, Chiếu khuyến khích nông nghiệp,. . . Tuy đề
ra những chủ trương hợp lý, “thuận lẽ trời lòng dân”, đặc biệt trong lĩnh vực văn
hóa, giáo dục nhưng tiếc thay, Hoàng đế Quang Trung đột ngột qua đời sớm ở tuổi
40 (1792), khiến cho những tư tưởng phục hưng xã tắc của Ngô Thì Nhậm không
thực hiện được thêm nữa.
2.1.4. Thời kỳ nhàn quan, Ngô Thì Nhậm “giữ lòng trung tín, làm theo
điều nghĩa”
Vua Quang Trung mất đi, Ngô Thì Nhậm thiếu vắng người hiểu mình và biết
dùng mình vào làm việc lớn. Nội bộ triều đình Quang Toản chia rẽ, những công
thần thời Quang Trung đều bị gạt khỏi chính trường. Rất buồn rầu vì phải ở ẩn
chính nơi triều đình (thành ẩn) nhưng ông vẫn một mực “giữ lòng trung tín, làm
theo điều nghĩa” và mong được trọng dụng trở lại để củng cố triều đình trụ vững
trong hoàn cảnh khó khăn [8;35,287]. Mặc cho thế cuộc đổi thay, lòng người thâm
hiểm, ông vẫn thể hiện khí phách hiên ngang trời phú cho, tự ví mình như cây tùng
đứng sừng sững, tự tin trong sương tuyết, “như rồng không sợ đầm, hổ chẳng sợ núi
cao”, “cốt cách hiên ngang kỳ lạ, lòng trống rỗng sống trong cõi trần tục, đầu thẳng
chỉ biết có trời” [7;275,354-356].
Nhàn quan nhưng Ngô Thì Nhậm luôn trăn trở về thế cuộc đến nỗi mới 53
64
Ngô Thì Nhậm - người trí thức nho học chân chính, nhà tư tưởng lỗi lạc
tuổi mà “bạn bè đều gọi là bậc lão thành”. Là nhà nho am hiểu lẽ đời, ông cho rằng
“làm hay dừng, lâu hay chóng, cũng chỉ cần sao cho hợp thời mà thôi” [7;319], cốt
sao để “trong lòng không hổ thẹn” [8;165]. Ông cùng với một số trí thức Nho học
được Quang Trung trọng dụng khi trước, giờ đây chỉ còn là những quan soạn sách,
trông coi việc lễ nghi,. . . Năm 1797, ông phụng mệnh trông coi việc san, tu Quốc sử
(cũng năm này, ông đem khắc ván in quyển Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ). Năm
sau, được giao việc trông coi Văn miếu Bắc Thành, ông đã cho sửa sang lại Văn
Miếu và nhà Quốc học. Cuối cùng thì cái tâm trạng “lo việc vua, hưởng lộc nước
đâu dám đòi về” của Ngô Thì Nhậm cũng được giải quyết. Ông tiếp tục theo đạo
Nho để được “cùng chơi trong cõi thánh, học thầy Tăng, Nhan”, nhiệt tình làm giáo
dục giúp đời: “Dạy người bảo tận mặt, nói tận tai, không gì lớn bằng việc đó; Giúp
đời giúp cả hình hài lẫn tinh thần, chẳng quản gian lao” [7;269,290].
Khi triều đình Quang Toản ngày càng suy yếu, Ngô Thì Nhậm dành thời gian
đi sâu vào nghiên cứu triết học Phật giáo để mong tìm được lối thoát trong tư tưởng.
Tuy vậy, ông vẫn tỏ ra là bậc trí thức vững chãi trong cuộc sống đời thường, vẫn
lao tâm khổ tứ vì cái “Lý” - cái đúng lẽ phải, cái “Nghĩa” - trách nhiệm với xã hội.
Những triết lý cơ bản và tinh thần nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần
được ông trình bày và phát triển trong tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh.
Dù có lúc mong được nhàn hạ như đám mây để “bay lượn nghìn năm mãi tự do”,
nhưng chính cái hiện thực ngổn ngang khiến cho ông phải trở lại chính mình để
lặng tâm xét thấu tận cùng sự thái hòa, hưng thịnh, suy vong, sự thay đổi của lòng
người,. . . Ông không tán đồng sự họa phúc, báo ứng mà tin tưởng vào hiện thực,
yêu cầu phải diệt bỏ giặc cuồng dâm, giống bất lương để không làm tăng thêm mầm
họa cho đất nước [8;86]. Như thế, ở thời kỳ xã hội biến loạn, tùy vào triết lý sống
mà mỗi người hoặc tự thu mình lại, hoặc tự để mình tuột trôi theo dòng xoáy cuộc
đời. Ngô Thì Nhậm tự thấy cần phải thái độ cẩn trọng hơn trong hành động vừa
theo lẽ tự nhiên, thuận đạo trời đất vừa phải đề phòng sự bất thường có thể xảy
ra ở người đời. Với ý chí ngày càng cao (“tráng chí”), tự ví mình là “đấng cao nhân
không ở trong vòng danh lợi”, ông tự nhủ cần phải “biết kết cục, biết đạt đến, thì
không mắc lỗi và “hãy tĩnh hãy yên” thì tự mình không ngả nghiêng” [7;334].
Năm 1802, triều đình nhà Tây Sơn mà Quang Trung đã dày công gây dựng đã
hoàn toàn sụp đổ. Ngô Thì Nhậm không cộng tác với nhà Nguyễn mà thủy chung
son sắt với vua Quang Trung và với sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Ngày 16
tháng 2 năm Quý Hợi (09-3-1803), ông qua đời ở tuổi 58 sau trận đòn thù ở Văn
Miếu do người của triều đình Nguyễn Ánh thực hiện.
Ngô Thì Nhậm để lại một di sản đồ sộ các tác phẩm về nhiều lĩnh vực tư
tưởng, chính trị, văn học, nghệ thuật, quân sự, ngoại giao, giáo dục, địa lý,... Phần
lớn các tác phẩm được tập hợp trong tùng thư Ngô gia văn phái. Ngoài những tác
65
Nguyễn Bá Cường
phẩm như đã nêu ở trên, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm khác, như: Công vụ thành
thư, Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Kim mã hành dư, Ngọc đường xuân
khiếu, Hoàng hoa đồ phả, Cúc hoa thi trận, Cẩm đường nhàn thoại, Thu cận dương
ngôn, Hào mân ai mục, Hàn các anh hoa, Liên hạ thi minh,. . .
2.2. Ngô Thì Nhậm - nhà tư tưởng lỗi lạc
Ngô Thì Nhậm là nhà tư tưởng lỗi lạc của lịch sử dân tộc có nhiều cống hiến
giá trị cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực tư tưởng. Chỉ xét riêng trên bình diện
tư tưởng triết học và giáo dục học, ông đã có những đóng góp quý báu về vấn đề
con người, giáo dục con người và trọng dụng nhân tài trong sự nghiệp chấn hưng
đất nước.
2.2.1. Tư tưởng triết học về con người của Ngô Thì Nhậm
Kế thừa và phát triển các học thuyết triết học phương Đông, Ngô Thì Nhậm
đã nêu lên nhiều tư tưởng có giá trị sự sinh thành con người. Xuất phát từ quan
điểm trong Kinh Dịch, ông coi “trời và người cùng chung một lý” [10;158]. “Lý” ở
đây được hiểu như là quy luật vận hành tự nhiên của trời đất và muôn vật, trong
đó sự xuất hiện của con người là do trời sinh ra và con người “cùng một thể với trời
đất”. Ngô Thì Nhậm đã nêu một định nghĩa về con người với đầy đủ các yếu tố thân
thể, tinh thần và cả những điều kiện sinh hoạt, đặc biệt là yếu tố dinh dưỡng cùng
những quan hệ xã hội tác động đến con người: “Tóm lại, cái thân của người ta là
do tinh khí tụ hợp, còn cái bộ dạng là do sự tập nhiễm ở nơi ăn chỗ ở, hoặc là do
sự thay đổi trong cách tẩm bổ” [10;183-184]. Ông cho rằng, trong mối quan hệ giữa
tinh thần và thân thể con người thì thân thể là cái có giới hạn, còn “tinh thần thì
không tiêu tan”. Do quan niệm tinh thần là yếu tố đầu tiên có trước thân thể, tinh
thần mới là cái tồn tại lâu dài nên ông khuyên con người hãy giữ gìn và coi trọng
tinh thần. Từ việc thừa nhận hình thể của con người là do hình và khí tạo nên, do
đó, không thể không bị quy luật sinh diệt chi phối, Ngô Thì Nhậm đề cao sự sống
của con người và nhấn mạnh: chỉ khi người ta đạt tới sự hoàn thiện về nhân cách,
trình độ, bản lĩnh thì mới thẩm thấu được ý nghĩa và giá trị của mục đích cuộc
sống. Vì vậy, mỗi người cần phải biết trân trọng tuổi trẻ vì “càng già đến, có tiền
cũng khó mua được tuổi trẻ” (Lão chí hữu tiền nan mãi thiểu) [7;449].
Trong tư tưởng về bản tính con người, Ngô Thì Nhậm trước hết tiếp cận con
người trên cơ sở tự nhiên - “thiên tính tự nhiên”. Ông quan niệm “trời sinh con người
đều có lòng ham muốn” nên “ham muốn vốn là tính tự nhiên, luôn luôn thể hiện ở
những hành động thường ngày, như đói thì muốn ăn, khát thì muốn uống, không
có không được”. Theo đó, việc đáp ứng những nhu cầu tự nhiên là điều kiện tất yếu
trong quá trình tồn tại và phát triển của con người. Tuy nhiên, khi nhìn nhận con
66
Ngô Thì Nhậm - người trí thức nho học chân chính, nhà tư tưởng lỗi lạc
người trong chính bản tính vốn có của nó, ông đã tuyệt đối hóa cái thiên tính tự
nhiên đó khi cho rằng “lòng người chẳng qua là lòng dục mà thôi. Đã có khí huyết
tâm tư, ai mà chẳng có lòng dục” [10;145,213]. Điều đặc biệt là Ngô Thì Nhậm đã có
những quan niệm “phóng khoáng” khi thực tế thừa nhận sức mạnh của tình ái, tình
dục trên phương diện là tính tự nhiên của con người. Ông viết: “Ghê gớm thay, tình
ái quả là khó kìm hãm” hoặc: “Kìa như! Tình dục nảy sinh từ chỗ ham muốn, nếu
không thấy cái có thể ham muốn, thì tình dục từ đâu mà ra?. . . Trai gái không chế
ngự nổi tình dục, cũng là do vậy mà thôi” [9;547]. D