Nguy cơ suy thoái tài nguyên nước và những mâu thuẫn trong vấn đề sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Gâm

1. Mở đầu Sông Gâm là phụ lưu cấp 1 lớn nhất của sông Lô. Phần diện tích lưu vực trên lãnh thổ Việt Nam là 9.649km2, chiếm 63,23% tổng diện tích lưu vực sông (LVS) Gâm, trải rộng trên ranh giới hành chính của 17 huyện thuộc 4 tỉnh là Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng và Bắc Kạn. Những kết quả nghiên cứu đánh giá, dự báo khả năng cung cấp nguồn nước lưu vực sông (LVS) Gâm cho thấy hiện tại và trong một hai thập kỷ tới, nhu cầu khai thác sử dụng nước của các địa phương trên LVS Gâm chưa đến mức gay gắt như các LVS khác nhưng những đặc thù về tự nhiên, kinh tế - xã hội (KT-XH) của các địa phương trong lưu vực đang chứa đựng nguy cơ phải đối mặt với những thách thức về tài nguyên nước, đẩy nhanh nguy cơ suy thoái và tiến dần tới ngưỡng khai thác nguồn nước. Mặt khác, LVS Gâm nói riêng, LVS Lô - Gâm nói chung cho đến nay vẫn chưa có tổ chức và cơ chế quản lí tài nguyên nước theo lưu vực mà chỉ được quản lí theo địa giới hành chính của các tỉnh, huyện. Tính chất hai mặt và sự bất ổn định của nguồn nước trong điều kiện đặc thù của lưu vực, nhu cầu sử dụng nước ngày càng cao cùng với những bất cập trong công tác quản lí của các địa phương LVS Gâm đang làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa khả năng cung cấp nguồn nước với nhu cầu khai thác cho các mục đích sử dụng, đòi hỏi phải nghiên cứu đánh giá phục vụ quy hoạch quản lí thống nhất và tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguy cơ suy thoái tài nguyên nước và những mâu thuẫn trong vấn đề sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Gâm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Science., 2010, Vol. 55, N◦. 5, pp. 86-94 NGUY CƠ SUY THOÁI TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ NHỮNG MÂU THUẪN TRONG VẤN ĐỀ SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG GÂM Nguyễn Quyết Chiến Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Mở đầu Sông Gâm là phụ lưu cấp 1 lớn nhất của sông Lô. Phần diện tích lưu vực trên lãnh thổ Việt Nam là 9.649km2, chiếm 63,23% tổng diện tích lưu vực sông (LVS) Gâm, trải rộng trên ranh giới hành chính của 17 huyện thuộc 4 tỉnh là Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng và Bắc Kạn. Những kết quả nghiên cứu đánh giá, dự báo khả năng cung cấp nguồn nước lưu vực sông (LVS) Gâm cho thấy hiện tại và trong một hai thập kỷ tới, nhu cầu khai thác sử dụng nước của các địa phương trên LVS Gâm chưa đến mức gay gắt như các LVS khác nhưng những đặc thù về tự nhiên, kinh tế - xã hội (KT-XH) của các địa phương trong lưu vực đang chứa đựng nguy cơ phải đối mặt với những thách thức về tài nguyên nước, đẩy nhanh nguy cơ suy thoái và tiến dần tới ngưỡng khai thác nguồn nước. Mặt khác, LVS Gâm nói riêng, LVS Lô - Gâm nói chung cho đến nay vẫn chưa có tổ chức và cơ chế quản lí tài nguyên nước theo lưu vực mà chỉ được quản lí theo địa giới hành chính của các tỉnh, huyện. Tính chất hai mặt và sự bất ổn định của nguồn nước trong điều kiện đặc thù của lưu vực, nhu cầu sử dụng nước ngày càng cao cùng với những bất cập trong công tác quản lí của các địa phương LVS Gâm đang làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa khả năng cung cấp nguồn nước với nhu cầu khai thác cho các mục đích sử dụng, đòi hỏi phải nghiên cứu đánh giá phục vụ quy hoạch quản lí thống nhất và tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Nguy cơ suy thoái tài nguyên nước lưu vực sông Gâm 2.1.1. Nguyên nhân suy thoái tài nguyên nước Các nguyên nhân suy thoái tài nguyên nước LVS Gâm rất đa dạng, phức tạp, được chi phối bởi cả những nhân tố khách quan - liên quan đến mối quan hệ và sự 86 Nguy cơ suy thoái tài nguyên nước và những mâu thuẫn trong vấn đề sử dụng... phát triển lâu dài của các thành phần tự nhiên tạo nên sự thích ứng với trạng thái cân bằng tương đối của môi trường và các nhân tố chủ quan - liên quan đến những tác động ngày càng lớn trong quá trình khai thác tài nguyên thiên nhiên của các địa phương phục vụ cho sự phát triển KT-XH. Sự kết hợp giữa các nguyên nhân khách quan và chủ quan cùng với những dị thường của chúng có thể dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ của các yếu tố môi trường nói chung, tài nguyên nước LVS Gâm nói riêng. Nguyên nhân do biến đổi khí hậu: Lưu lượng và chế độ dòng chảy phụ thuộc trực tiếp vào diễn biến của điều kiện khí hậu. Biến đổi khí hậu là vấn đề có tính chất toàn cầu, trong đó LVS Gâm chỉ là một phạm vi ảnh hưởng nhỏ nên được coi là nguyên nhân khách quan. Tương quan so sánh về nhiệt độ trung bình và tổng lượng mưa trung bình năm giữa thập kỷ 2001 - 2010 với thập kỷ 1991 - 2000 cho thấy, trên toàn lưu vực, nhiệt độ trung bình tháng I tăng lên 0,5 - 0,60C, nhiệt độ trung bình tháng VII tăng lên 0,0 - 0,20C, nhiệt độ trung bình năm tăng lên 0,20C; lượng mưa trung bình năm giảm đi khoảng 50 - 100mm hầu hết các địa điểm [1]. Nguyên nhân do các hoạt đông khai thác tài nguyên thiên nhiên lưu vực: Sự gia tăng dân số và tập trung dân cư ngày càng lớn trên lưu vực cùng với những hoạt động trong các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản. . . đã đòi hỏi nhu cầu sử dụng tài nguyên nước ngày càng lớn. Lượng chất thải từ quá trình khai thác sử dụng là những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng tài nguyên môi trường nói chung, suy thoái đất dẫn đến ô nhiễm nguồn nước nói riêng. Những hoạt động chủ yếu ảnh hưởng lớn đến tài nguyên nước LVS Gâm bao gồm: - Hoạt động nông nghiệp: ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của các địa phương trên LVS Gâm (35% năm 2008). Diện tích đất hiện tại trên lưu vực được sử dụng cho mục đích nông nghiệp chiếm khoảng 10,5% tổng diện tích tự nhiên, phân bố trên những khu vực có độ dốc từ 50 - 350. Hoạt động nông nghiệp với phương thức canh tác lạc hậu, manh mún đã làm suy thoái và gia tăng xói mòn đất; làm suy giảm nguồn cung cấp nước sông và trữ lượng nước ngầm do lấy nước phục vụ tưới, đặc biệt trong giai đoạn mùa cạn. Công tác quản lí nguồn nước tưới tiêu chưa có sự thống nhất và công bằng giữa các địa phương nên khi lượng nước tưới ở lưu vực thượng nguồn lớn đã làm giảm lưu lượng nước chảy về hạ lưu, giảm khả năng tự làm sạch của nước và gia tăng mức độ ô nhiễm. Do nhu cầu sử dụng nước lớn nên lượng dòng chảy bị suy thoái do nước tưới rất lớn. Lượng nước tổn thất do tưới này sẽ làm trầm trọng thêm khả năng thiếu nước, làm nảy sinh mâu thuẫn trong sử dụng nước giữa các địa phương trên lưu vực (bảng 1). - Sự phát triển công nghiệp và nghề thủ công truyền thống: hoạt động công nghiệp của các địa phương trên LVS Gâm gồm có gia công cơ khí, dệt may, khai 87 Nguyễn Quyết Chiến thác khoáng sản, điện lực, khai thác và chế biến lâm sản, nông sản, làng nghề truyền thống... với quy mô nhỏ. Mặc dù chưa phải là nhóm ngành phát triển mạnh nhưng sự tập trung các cơ sở công nghiệp, đặc biệt là hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản chủ yếu ở các thị trấn, thị xã, các điểm dân cư gần nguồn nước sông, suối nên đã thải ra một lượng chất thải đáng kể vào môi trường, đe dọa nghiêm trọng đến chất lượng môi trường nước. Bảng 1. Lượng nước tổn thất do tưới trong nông nghiệp LVS Gâm Lượng nước tưới Năm2005 2010 2020 Lượng nước tưới (106m3) 219.59 313.24 342.78 Lượng nước tổn thất do tưới (106m3) 175.67 250.60 274.22 Tỷ lệ % so với tổng lượng dòng chảy mùa cạn 9.98 14.24 15.58 Nguồn: Viện Khí tượng - Thủy văn và Môi trường, 2009. - Hoạt động khai thác lâm sản trên quy mô công nghiệp trên lưu vực thường được đảm bảo bằng kế hoạch trồng mới nhưng ở nhiều nơi công tác này chưa có sự tương ứng giữa khai thác và phục hồi rừng. Chính vì thế, mặc dù tài nguyên rừng ít có sự suy giảm về diện tích nhưng chất lượng rừng bị suy giảm nhanh do chưa đủ thời gian phục hồi rừng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vai trò điều tiết dòng chảy và cung cấp nước cho hệ thống sông suối, tăng nguy cơ tai biến thiên nhiên liên quan đến tài nguyên nước. Ảnh hưởng của hệ thống đập hồ chứa thủy điện trên lưu vực: Công trình thuỷ điện Tuyên Quang trên sông Gâm với dung tích hồ chứa là 2.244,9.106m3 và diện tích mặt hồ ứng với mực nước dâng bình thường 120m là 79,78km2 đã chính thức đi vào hoạt động. Việc xây dựng đập, ngăn sông tạo nên hồ chứa, ngoài những lợi ích to lớn mang lại cũng gây ra những tác động mạnh mẽ đến tài nguyên môi trường lưu vực: làm thay đổi cơ bản về môi trường và sinh thái vùng lòng hồ; xác thực vật phân hủy cùng với sự tích tụ các chất hữu cơ ở lòng hồ sẽ làm thay đổi chất lượng nước và các hệ sinh thái dưới nước; tác dụng tích nước của hồ chứa dẫn đến sự thay đổi chế độ thủy văn lòng dẫn, thay đổi mực nước ngầm cả phần thượng nguồn và hạ lưu; diện tích mặt nước mở rộng còn làm thay đổi các điều kiện khí hậu vốn là nhân tố chi phối trực tiếp đến diễn biến và lưu lượng dòng chảy. 2.1.2. Nguy cơ suy thoái tài nguyên nước lưu vực sông Gâm - Sự gia tăng các tai biến thiên nhiên liên quan đến tài nguyên nước: Lũ bùn - đá và trượt lở đất đá là những dạng tai biến khá phổ biến ở LVS Gâm, xảy ra thường xuyên trên các phụ lưu nhỏ. Cấu trúc địa mạo bất ổn định trong điều kiện mưa lớn và phân mùa, lớp phủ thực vật mỏng cùng với những tác động của con người đã làm cho các tai biến thiên nhiên liên quan đến tài nguyên 88 Nguy cơ suy thoái tài nguyên nước và những mâu thuẫn trong vấn đề sử dụng... nước LVS Gâm có xu hướng mạnh hơn về cường độ và dày hơn về tần suất. Trong đó, lũ quét - lũ bùn đá là dạng tai biến đặc biệt nguy hiểm, xảy ra khá phổ biến trên lưu vực. Chỉ tính từ năm 1990 trở lại đây, trên LVS Gâm đã xảy ra 10 trận lũ quét - lũ bùn đá, gây thiệt hại lớn về người và vật chất cho các địa phương. Trong đó điển hình là trận lũ quét xảy ra trên sông Gâm vào tháng 7/2004 tại Cao Bằng và Hà Giang làm 48 người chết, ước tính thiệt hại lên đến gần 50 tỷ đồng. Ngoài ra, quá trình trượt lở đất đá cũng có xu thế xảy ra mạnh và xuất hiện ở hầu hết các năm và ở tất cả các huyện của 4 tỉnh trên lưu vực. Các phụ lưu thượng nguồn sông Gâm là khu vực có sự gia tăng mạnh nhất hiện tượng lũ quét - lũ bùn đá và trượt lở. Mức độ nguy hiểm thường tăng lên khi hiện tượng trượt lở và lũ quét - lũ bùn đá có quan hệ tương hỗ: trượt lở tạo vật chất làm nghẽn dòng, tạo ra thế năng lớn gây lũ quét, ngược lại, lũ quét - lũ bùn đá lại gây ra trượt lở mạnh mẽ hơn trên đường đi của nó. - Nguy cơ suy thoái nguồn nước ngầm: Nghiên cứu đánh giá về trữ lượng, chất lượng và khả năng khai thác tài nguyên nước ngầm LVS Gâm còn chưa được hoàn thiện do hạn chế về nguồn tư liệu. Việc khai thác nước ngầm trên lưu vực vẫn còn ở mức sơ khai, tự phát nhằm đáp ứng nhu cầu nước tưới và sinh hoạt. Chính sự khai thác nhỏ lẻ, thiếu cơ chế quản lí và kiểm soát nên tiềm ẩn nguy cơ suy giảm trữ lượng, chất lượng nguồn nước ngầm kèm theo quá trình sụt lún trên diện rộng. - Suy thoái chất lượng nước mặt: Do chảy qua vùng có cấu tạo nham thạch chất phổ biến là đá vôi nên nhìn chung nước sông Gâm có tính chất trung tính hoặc kiềm nhẹ. Tính chất kiềm có xu hướng tăng lên ở nhánh sông Năng và hồ Ba Bể. Trên dòng chính sông Gâm, độ pH ổn định ở mức 7,57-7,67, nhưng tại cửa sông Năng, nơi đổ vào sông Gâm, độ pH tăng đột ngột lên 7,94 và giảm xuống 7,78 ở khu vực bến phà Na Hang. Chất lượng môi trường nước sông Gâm nhìn chung có độ đục thấp hơn các sông khác của hệ thống sông Lô - Gâm. Nguồn nước sông, hồ chứa còn tương đối sạch, nghèo chất dinh dưỡng, đạt tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên, nguồn nước lưu vực đã có dấu hiệu ô nhiễm ở một số nơi, nhất là trong mùa cạn. Sự phát triển thiếu quy hoạch và công nghệ lạc hậu của những cơ sở công nghiệp và làng nghề đa dạng từ lâu đời dọc hai bên sông với nhu cầu sử dụng nước lớn đã gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng tại khu vực xả thải. Chất gây ô nhiễm ngày càng đa dạng về thành phần. Hàm lượng COD, BOD, NH4 trong nước mặt và nước ngầm ngày càng cao. Việc khai thác khoáng sản và vật liệu xây dựng dọc lòng sông không có sự quản lí đã làm thay đổi dòng chảy, xói lở bờ sông và làm tăng độ đục dòng chảy nước. Chất lượng nước sông Gâm còn bị ô nhiễm bởi hàng triệu tấn phân hữu cơ do chăn thả gia súc gia cầm trên quy mô lớn của các địa phương. Việc sử dụng phân hữu cơ không qua các biện pháp xử lí sinh học, chuồng trại không hợp vệ sinh và tập quán nuôi thả tự do đã tạo ra một lượng lớn phân hữu cơ phát tán trong tự nhiên, gây ô nhiễm trực tiếp đối với môi trường nước và không khí. 89 Nguyễn Quyết Chiến - Thiếu nước cục bộ: Sự phân bố không đều theo không gian và diễn biến thất thường theo thời gian của nguồn cung cấp nước có thể dẫn đến sự thiếu nước cục bộ và trở thành một nguyên nhân làm gia tăng suy thoái nguồn nước. Tình trạng thiếu nước xảy ra ở nhiều nơi, nhất là trong mùa khô - thời kỳ nhu cầu dùng nước tưới lớn. Các địa phương trên cao nguyên đá vôi thuộc Hà Giang (Quản Bạ, Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc) là những khu vực thường xuyên thiếu nước với lượng mưa năm dưới 1400mm và lưu lượng dòng chảy chỉ từ 10-20l/s.km2. Địa hình cao, chia cắt mạnh, hệ thống dòng chảy karst ngầm phát triển mạnh nhưng thường phân bố sâu và không đều nên việc khai thác gặp nhiều khó khăn. Nhiều nơi người dân phải đi xa 200 - 500m từ nơi cư trú mới có thể tiếp cận nguồn nước sinh hoạt. 2.2. Mâu thuẫn trong sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Gâm Quá trình khai thác sử dụng tài nguyên nước LVS Gâm đã làm phát sinh những mâu thuẫn sau đòi hỏi cần giải quyết: 2.2.1. Mâu thuẫn giữa nhu cầu dùng nước với tiềm năng nguồn nước Cũng như nhiều LVS khác ở nước ta, điểm cơ bản của dòng chảy LVS Gâm là sự biến đổi theo mùa và dao động giữa các năm. Mùa lũ trên LVS Gâm kéo dài từ tháng VI đến tháng IX, X chiếm 70 - 80% tổng lượng dòng chảy năm. Tính phân mùa của dòng chảy là nguyên nhân chính gây nên mâu thuẫn giữa tiềm năng nguồn nước với nhu cầu dùng nước ở các địa phương. Tính chung trong cả năm giữa nguồn nước tự nhiên với lượng nước cần sử dụng thì không thiếu nước, nhưng nguồn nước tự nhiên của sông suối suy giảm mạnh về mùa cạn, trong khi đó lượng nước cần sử dụng, đặc biệt là nhu cầu nước tưới cho nông nghiệp lại tăng lên vào thời gian này. Do đó, nhiều nơi xảy ra tình trạng thiếu nước tưới và sinh hoạt trong mùa khô. Kết quả đánh giá hiện trạng và dự báo cân bằng nước LVS Gâm từ năm 2000 đến năm 2020 bằng mô hình SWAT và MIKE BASIN cho thấy: tính chung trong cả năm, lượng nước cần dùng ở một số mốc thời gian từ năm 2000 đến năm 2020 chỉ dao động không quá 5% tổng lượng dòng chảy do sông cung cấp (bảng 2). Tuy nhiên, trong từng tháng tỷ lệ này thay đổi rất lớn và tăng mạnh trong các tháng mùa khô với trị số dao động phổ biến từ 10-20%, nhiều nơi lên đến 25-30%. Như vậy có thể thấy lưu lượng dòng chảy năm phân bố không đều giữa mùa lũ - mùa cạn và giữa các vùng trong lưu vực. Nhu cầu sử dụng nước LVS Gâm đang dần tiến tới giới hạn khai thác an toàn. Trong khi đó, nhu cầu về nước tưới mùa cạn rất lớn nên nhiều địa phương xảy ra tình trạng thiếu nước cục bộ. Trong thực tế, để điều hoà nguồn nước sông, tính đến nay trong lưu vực đã xây dựng và đưa vào hoạt động hồ chứa thủy điện Tuyên Quang. Sau năm 2010 còn một số hồ chứa thuỷ điện khác trên dòng chính và các sông nhánh sẽ được xây 90 Nguy cơ suy thoái tài nguyên nước và những mâu thuẫn trong vấn đề sử dụng... dựng. Các hồ chứa này đang và sẽ phát huy hiệu quả điều tiết dòng chảy, khai thác nguồn thuỷ điện, nâng cao khả năng cấp nước cho các địa phương trong mùa khô và phòng chống lũ trong mưa cho hạ lưu. Bảng 2. Khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng nước ở các tiểu vùng LVS Gâm qua một số mốc thời gian từ năm 2000 đến năm 2020 (Qđ-lưu lượng nước đến; Qnc-lưu lượng nước cần sử dụng; đơn vị: m3/s ) Tiểu Ranh giới hành chính Cân bằng nước vùng Tỉnh Huyện/Xã Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 Năm 2020Qnc Qđ Qnc Qđ Qnc Qđ Qnc Qđ TV1 Hà Giang Đồng Văn, Yên Minh, Mèo Vạc 21.7 1400.7 57.2 3702.8 32.1 1400.7 36.6 1400.7 Cao Bằng Bảo Lạc, Bảo Lâm TV2 Hà Giang Bắc Mê 21.1 3207 55.2 8006.4 21.4 3019.1 25.5 3015.4 Tuyên Quang Na Hang TV3 Bắc Cạn Ba Bể, Chợ Đồn (3/22 xã, TT), Ngân Sơn (3/10 xã) 18.4 704.6 48.3 1863.8 30.3 704.6 34.6 704.6 Tuyên Quang Na Hang TV4 Tuyên Quang Na Hang, Chiêm Hoá, Yên Sơn 36.8 4875.6 96.8 12894.5 62.3 4187.7 71.8 4201.8 2.2.2. Mâu thuẫn về sự phân bố nguồn nước giữa các vùng Sự phân hóa tài nguyên nước trên LVS Gâm thể hiện trước hết ở sự phân bố lượng mưa - nguồn cung cấp nước chủ yếu của lưu vực. Tổng lượng mưa LVS Gâm đạt gần 2.100mm/năm nhưng có sự khác biệt lớn giữa các vùng với mức dao động từ 1200mm đến 2500mm ở mỗi địa phương. Tính chung trên toàn lưu vực, tổng lượng dòng chảy năm Q0 trung bình là 126,9m3/s, giá trị modul dòng chảy M0 trung bình nhiều năm biến thiên từ 12 - 45l/s.km2, phổ biến từ 15 - 20l/s.km2, tăng dần về phía thượng nguồn và trên các phụ lưu. Trong đó, khu vực ven sông Gâm từ Na Hang đến Vĩnh Lộc có giá trị M0 < 15 l/s.km2 do tác dụng chắn gió của cánh cung sông Gâm và cánh cung Ngân Sơn. Riêng các khu vực cao nguyên đá vôi ở Đồng Văn - Mèo Vạc do phát triển mạnh dòng chảy ngầm và hạn chế về nguồn tư liệu nên rất khó đánh giá đầy đủ nguồn tài nguyên nước mặt. Lưu lượng trung bình năm khoảng 125m3/s, nhỏ hơn so với các sông khác trong hệ thống sông Lô - Gâm. Sự phân bố của modul dòng chảy năm tương ứng với tần suất 75% (M75%) và 95% (M95%) phân bố không đều và có xu hướng giảm dần về phía thượng nguồn. 91 Nguyễn Quyết Chiến Nhìn chung giá trị M75% dao động trong phạm vi từ 15 đến 30l/s.km2. Khu vực hạ lưu sông Gâm và các sông nhánh của hồ Ba Bể M75% đạt giá trị lớn nhất (>25l/s.km2) sau đó giảm dần về phía thượng nguồn và dọc thung lũng từ Ba Bể, Na Hang đến Chiêm Hóa (<15l/s.km2). Giá trị M95% của lưu vực dao động trong khoảng 10 đến 30l/s.km2. Trên vùng cao nguyên đá vôi Đồng Văn - Quản Bạ M95% dao động từ 10-20l/s.km2 và đạt giá trị nhỏ nhất ở khu vực thung lũng sông Gâm từ Na Hang đến Chiêm Hoá (<10l/s.km2). Trong những thập kỷ tới cùng với sự gia tăng dân số và phát triển KT-XH, lượng nước cần dùng trong tất cả các tiểu vùng của lưu vực đều có xu hướng tăng (bảng 3). Điều này có thể phát sinh mâu thuẫn về nước giữa các vùng, đặc biệt là tiểu vùng 4 (TV4), là khu vực có lưu lượng nhỏ nhưng nhu cầu sử dụng nước lại lớn nhất do sự phát triển ưu thế về các ngành kinh tế và mức độ tập trung dân cư cao. Bảng 3. Nhu cầu sử dụng nước LVS Gâm một số mốc thời gian từ năm 2000 đến năm 2020 (đơn vị: triệu m3) Tháng I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII Năm 2000 35.4 16.0 35.5 18.0 5.6 44.2 22.3 18.2 24.2 12.0 11.7 11.4 254.5 2005 36.4 14.6 36.7 18.0 5.8 44.1 23.0 18.9 24.3 12.4 11.7 11.8 257.7 2010 38.6 14.0 41.9 17.5 3.7 44.8 27.4 19.2 41.4 10.1 13.1 12.9 284.6 2020 48.7 18.0 51.2 21.9 4.8 49.7 30.8 21.5 46.3 11.8 15.8 15.3 335.8 2.2.3. Mâu thuẫn giữa nhu cầu nước tưới và phát điện Trên LVS Gâm, lượng nước tưới chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số nhu cầu sử dụng nước. Ngoài hồ chứa Tuyên Quang đã chính thức hoạt động từ đầu năm 2008 với mực nước dâng bình thường 120m và dung tích chứa tương ứng 2.244,9.106m3, trên LVS Gâm còn một số dự án đập hồ thủy điện nhỏ khác đang được quy hoạch. Đây là hệ thống đập hồ đa mục tiêu, đảm bảo nguồn nước tưới với phát điện và điều tiết lũ cho hạ du. Sự kết hợp nhu cầu giữa các mục đích là cần thiết nhưng không thể đảm bảo lợi ích giữa nguồn nước tưới và phục vụ phát điện, đặc biệt là trong các tháng mùa khô của những năm mưa ít do dung lượng hồ chứa không đủ lớn để dự trữ nước trong mùa lũ và yêu cầu nước tưới cần cung cấp cho vùng hạ lưu tăng lên trong mùa kiệt. 2.2.4. Mâu thuẫn giữa nhu cầu sử dụng nước cho các mục đích phát triển với nhu cầu nước của các hệ sinh thái và môi trường Như trên đã phân tích, bên cạnh việc đảm bảo nhu cầu sử dụng cho các hoạt động phát triển, các biện pháp đặt ra còn cần phải tính đến lượng nước cần thiết để duy trì sự ổn định và phát triển của môi trường sinh thái. Quá trình tích nước tại các hồ chứa trên lưu vực đã làm thay đổi cơ bản về các hệ sinh thái vùng lòng hồ. Sự can thiệp bằng các biện pháp công trình có thể làm cạn kiệt dòng chảy và mực nước ngầm vùng hạ lưu, không đảm bảo đủ nguồn nước để duy trì sự ổn định của môi trường sinh thái, tăng nguy cơ ô nhiễm nguồn nước và xói lở - bồi tụ lòng dẫn. 92 Nguy cơ suy thoái tài nguyên nước và những mâu thuẫn trong vấn đề sử dụng... Cho đến nay, chất lượng môi trường nước sông Gâm nhìn chung có độ đục thấp hơn các sông khác của hệ thống sông Lô - Gâm - Chảy. Nguồn nước sông, hồ chứa còn tương đối sạch, đạt tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt và sản xuất. Tuy nhiên, nguồn nước lưu vực đã có dấu hiệu ô nhiễm ở một số nơi chảy qua thị xã, thị trấn, nhất là trong mùa cạn. Việc xem xét giữa lợi ích kinh tế với việc đảm bảo sự ổn định môi trường sinh thái sẽ là một thách thức làm nảy sinh thêm mâu thuẫn giữa môi trường và các ngành kinh tế của các địa phương trên lưu vực. 2.3. Nhận định về ngưỡng khai thác tài nguyên nước lưu vực sông Gâm Ngưỡng khai thác tài nguyên nước là giới hạn lượng nước cho phép khai thác sử dụng không hoàn trả lại cho sông (phần mất đi do tưới, sử dụng cho các ngành công nghiệp, sinh hoạt, dịch vụ. . . ), được tính bằng tỷ lệ % giữa lượng nước thừa trong mùa lũ so với lượng nước tiềm năng [7]. Theo Huỳnh Thị Lan Hương (2009), ngưỡng khai thác tài nguyên nước trung bình tại một số trạm chính trên LVS Gâm là 35.2%. Đối chiếu với kết quả nghiên cứu này, có thể nhận thấy trong cả năm, lượng nước cần sử dụng từ năm 2000 đến 2020 trên LVS Gâm nhỏ hơn nhiều so với giới hạn khai thác cho phép. Tuy nhiên vào các tháng mùa khô, khi nhu cầu sử dụng nước tăng lên, lượng nước cần dùng ở một số địa phương của TV1, TV3 và TV4 trong các mốc thời gian 2010, 2020 đã chiếm từ 20-30% tổng lượng nước đến trong thời gian
Tài liệu liên quan