Nhận định kinh tế Việt Nam và cơ hội đầu tư năm 2011

Kết thúc năm 2010, kinh tế thế giới có dấu hiệu hồi phục và đạt được tốc độ tăng trưởng khá tốt. Theo IMF, tăng trưởng kinh tế cả năm 2010 của thế giới sẽ đạt 4.8% từ mức giảm 0.6% trong năm 2009. Những dự đoán về nguy cơ khủng hoảng kép, khả năng sụp đổ của khối kinh tế EU hay khả năng chiến tranh tiền tệ giữa các nước về cơ bản đã không xảy ra trong năm 2010. Tuy nhiên, xét một cách tổng quan, năm 2010 thế giới vẫn chưa giải quyết được các vấn đề cơ bản về phát triển bền vững và nguy cơ nợ công vẫn là rủi ro lớn nhất ảnh hưởng tới sức khỏe của kinh tế toàn cầu.

pdf15 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1775 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhận định kinh tế Việt Nam và cơ hội đầu tư năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHẬN ĐỊNH KINH TẾ VIỆT NAM & CƠ HỘI ĐẦU TƢ NĂM 2011 TS.Đinh Thế Hiển & VFA GROUP Báo cáo được thực hiện bởi Nhóm Phân tích tài chính đầu tư VFA group nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư tham khảo tóm lược tình hình kinh tế - tài chính quý IV/2010 và các dự báo cơ hội đầu tư năm 2011. Các dữ liệu sử dụng trong báo cáo được sử dụng từ các báo cáo của các Tổ chức kinh tế tài chính trong và ngoài nước và nguồn thống kê của nhóm. A. TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM 2010 & DỰ BÁO NĂM 2011 1. NHẬN ĐỊNH KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2011 TÌNH HÌNH KINH TẾ - TÀI CHÍNH THẾ GIỚI CUỐI NĂM 2010 Kết thúc năm 2010, kinh tế thế giới có dấu hiệu hồi phục và đạt được tốc độ tăng trưởng khá tốt. Theo IMF, tăng trưởng kinh tế cả năm 2010 của thế giới sẽ đạt 4.8% từ mức giảm 0.6% trong năm 2009. Những dự đoán về nguy cơ khủng hoảng kép, khả năng sụp đổ của khối kinh tế EU hay khả năng chiến tranh tiền tệ giữa các nước về cơ bản đã không xảy ra trong năm 2010. Tuy nhiên, xét một cách tổng quan, năm 2010 thế giới vẫn chưa giải quyết được các vấn đề cơ bản về phát triển bền vững và nguy cơ nợ công vẫn là rủi ro lớn nhất ảnh hưởng tới sức khỏe của kinh tế toàn cầu. KINH TẾ MỸ: Tập trung giải pháp để kích thích tăng trưởng kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp Tăng trưởng kinh tế quý IV.2010 ước đạt 3.1%, so với mức tăng 2.6% trong quý III và 1.7% trong quý II. Dự ước tăng trưởng cả năm 2010 của Mỹ có thể đạt 2.6%. Tỷ lệ thất nghiệp tháng 12.2010 tăng 9.4%, mặc dù có giảm so với tháng 11.2010 (9.8%) và giảm so với cùng kỳ năm 2009 (10%) nhưng so với năm 2008, thời điểm xảy ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì tỷ lệ thất nghiệp của các tháng năm 2010 vẫn ở mức cao trên 9%. Tăng trưởng trong tiêu dùng trở lại bắt đầu từ quý III.2009, nhưng vẫn duy trì ở mức thấp cho thấy có 1 sự cắt giảm lớn trong chi tiêu tiêu dùng. Tháng 11.2010, Fed đưa ra kế hoạch mua lại 600 tỷ USD trái phiếu kho bạc dài hạn (2 – 10 năm) trong vòng 8 tháng (kết thúc vào tháng 6/2011) theo mức độ 75 tỷ USD/tháng và có điều chỉnh. Gói kích thích này được đưa ra trong bối cảnh gói kích thích lần 1 (QE1) trị giá 1,700 tỷ USD kết thúc nhưng chưa mang lại hiệu quả như mong đợi. Tăng trưởng kinh tế quý II.2010 chỉ đạt 1.7% - giảm so với mức tăng 3.7% trong quý I, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao trên 9%, doanh số mua bán nhà và mua xe chưa có dấu hiệu cải thiện so với hồi cuối năm 2009, lạm phát đầu năm duy trì ở mức trên 2%/tháng và có dấu hiệu giảm dần sang những tháng cuối năm 2010. Chỉ số chứng khoán DJ index phục hồi yếu ớt trong 6 tháng đầu năm và có tháng chỉ số này chỉ được giao dịch dưới mức 10,000 điểm. Ngoài việc đưa ra gói kích thích kinh tế lần 2, Mỹ còn hỗ trợ nền kinh tế bằng việc duy trì lãi suất ở mức gần 0% để kích thích đầu tư và đẩy mạnh tiêu dùng nội địa nhằm vực dậy nền sản xuất trong nước. Hiện tại, vẫn chưa có bằng chứng để khẳng định gói QE2 lần này của Fed có phải là bước đi đúng đắn và kịp thời hay không. Nhiều ý kiến cho rằng gói kích thích kinh tế của Fed sẽ không mang lại tác dụng phục hồi chắc chắn cho kinh tế Mỹ mà trái lại, sẽ làm mất giá mạnh đồng đô la Mỹ, nguy cơ lạm phát bùng phát và khiến nước Mỹ thêm ngập sâu vào nợ nần. Theo báo cáo của Bộ Tài chính Mỹ, tổng nợ chính phủ cho năm tài khoá kết thúc vào 30/9/2010 đã vượt qua tổng tài sản tới 13,473 tỷ USD, năm 2009 con số này đã lên tới 11,456 tỷ USD. Bộ tài chính Mỹ ước tính giới hạn nợ có thể được chạm tới vào ngày 31/3/2011. KINH TẾ CHÂU ÂU: Kinh tế khối châu Âu có dấu hiệu hồi phục nhưng áp lực nợ công vẫn còn lớn. Việc áp dụng chính sách thắt chặt chi tiêu ngân sách đang khiến đà tăng trưởng của nhiều nước trong khối bị ảnh hưởng. Nguồn: US Bureau of labor Statistics Nguồn: National Association of REALTORS® Nguồn: US Bureau of labor Statistics Nguồn: inflationdata.com Tăng trưởng kinh tế của khối EA16 đạt 0.3% và khối EU27 đạt 0.5% trong quý III.2010 (theo VP thống kê của EU). Trong quý III, tăng trưởng kinh tế của cả 2 vùng đều đạt 1.0%. So với cùng kỳ năm ngoái, tăng trưởng kinh tế đạt 1.9% tại khu vực EA16 và 2.2% tại khu vực EU27. Chỉ tiêu này trong quý II.2010 ở cả 2 khu vực là 2.0%. Trong quý III, Thụy Điển là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất (2.1%), tiếp theo là Luxembuorg (1.5%) và Ba Lan (1.3%). Chi tiêu tiêu dùng hộ gia đình tăng 0.1% ở khu vực EA 16 và tăng 0.2% ở khu vực EU27. Tổng chi phí đầu tư giảm 0.3% ở khu vực EA16 nhưng lại tăng 0.3% ở khu vực EU27. Xuất khẩu tăng 1.9% ở cả 2 khu vực trong khi nhập khẩu tăng 1.5% ở khu vực EA16 và tăng 1.7% ở khu vực EU27. Lạm phát của khối tăng 2.2% trong tháng 12 so với mức tăng 1.9% trong tháng 11. Tăng trƣởng kinh tế châu Âu tính tới quý 3/2010 Q4- 2008 Q1- 2009 Q2- 2009 Q3- 2009 Q4- 2009 Q1- 2010 Q2- 2010 Q3- 2010 EU -2.1 -5.1 -5.1 -4.3 -2.2 0.6 2.0 2.2 Đức -2 -6.6 -5.5 -4.4 -2 2.1 3.9 3.9 Anh -2.7 -5.4 -5.9 -5.3 -2.8 -0.3 1.6 2.7 Ý -3.3 -6.5 -6.1 -4.7 -2.8 0.5 1.2 1.1 Pháp -1.9 -3.9 -3.1 -2.7 -0.5 1.2 1.6 1.7 Ireland -9.1 -9.2 -7.7 -7.7 -5.6 -1.1 -1.8 -0.7 Hy lạp -2 -6.6 -5.5 -4.4 -2 2.1 3.9 3.9 Nguồn: OECD Về cơ bản tăng trưởng kinh tế của toàn khối đã có dấu hiệu phục hồi trong năm 2010 nhưng khủng hoảng nợ kéo dài đang là thách thức đáng ngại nhất đối với đồng euro. Sau nhiều tháng gây tranh cãi, cuối cùng EU và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF đã thống nhất thông qua gói cứu trợ 110 tỷ euro (tương đương 145 tỷ USD) cho Hy Lạp, nhằm ngăn chặn nguy cơ lây lan của cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp. Ngoài việc yêu cầu các nước trong khối mạnh tay với thắt chặt chi tiêu công EU cũng thành lập 1 quỹ cứu trợ trị giá 750 tỷ euro (tương đương 986 tỷ USD) để giúp các thành viên Eurozone khác tránh rơi vào tình trạng như Hy Lạp. Tuy nhiên, tình hình nợ công vẫn tiếp tục đeo bám các nước trong khối khi cuối năm Ireland trở thành nước thứ 2 tuyên bố mất khả năng trả nợ và phải xin cứu trợ trong tháng 11. Dự báo nguy cơ tiếp theo đến từ những nước thành viên có tỷ lệ nợ công cao hơn như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italya… Dự báo, tình hình khủng hoảng nợ công châu Âu có thể sẽ nghiêm trọng hơn trong năm 2011. Theo ngân hàng Italia UniCredit, trong năm 2011, các nước Eurozone sẽ phải trả nợ 560 tỷ euro (736 tỷ USD) - một khoản đáo nợ kỷ lục trong lịch sử 11 năm của đồng euro và nhiều hơn tới 45 tỷ euro (59 tỷ USD) so với khoản nợ phải thanh toán của năm 2010. Trong đó, riêng Bồ Đào Nha - “mắt xích” yếu nhất tiếp theo của Eurozone - sẽ phải trả khoản nợ 20 tỷ euro (26 tỷ USD) vào giữa năm 2011 tới. KINH TẾ NHẬT: Tăng trưởng kinh tế của N Nhật Bản vẫn đang ở dưới mức so với thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng. Các biện pháp kích thích kinh tế và sự phục hồi thương mại toàn cầu cùng sự bùng nổ về nhu cầu tại các nước châu Á đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Nhật kể từ quý IV.2009, nhưng tình hình có vẻ đi xuống trở lại trong quý II.2010. Tăng trưởng kinh tế quý III.2010 của Nhật đạt 1.1%, mức tăng khá so với tăng trưởng 0.37% trong quý II.2010 và so với mức tăng trưởng âm (-0.09%) trong cùng kỳ năm 2009. Dự báo tăng trưởng kinh tế cả năm 2010 của Nhật sẽ đạt 2.8% so với sự tụt giảm mạnh -5.2% hồi năm 2009. Mặc dù, kinh tế Nhật Bản đã tạo được đà phát triển trong quí III.2010, nhưng đà tăng trưởng này đang mất đi do nhu cầu của nước ngoài giảm sút. Dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2011 của Nhật tiếp tục bị ảnh hưởng do chính sách thắt chặt tiền tệ của Trung Quốc cùng chỉ số chi tiêu tiêu dùng tại nhiều nước có dấu hiệu chững lại, đặc biệt nhu cầu về xe hơi và các thiết bị điện tử vốn là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Nhật. Đồng Yên mạnh ảnh hưởng đến xuất khẩu và giảm phát tiếp tục cản trở tốc độ phục hồi. Từ đầu năm đến nay, Yên Nhật đã tăng 11% so USD, GDP trong năm tài khóa bắt đầu từ ngày 01/04/2011 chỉ tăng 1,5% sau khi tăng 3,1% trong năm nay. Vì thế, NHTW Nhật Bản quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản 0-0,1% và duy trì quỹ thu mua tài sản trị giá 5,000 tỷ yên được công bố hồi tháng 10. Gần đây nhất nước này đã thông qua gói chi tiêu ngân sách kỷ lục, với giá trị lên tới 92,400 tỷ Yên, tương đương 1,110 tỷ USD và dự kiến thông qua vào tháng 3.2011. Gói chi tiêu ngân sách này có mục đích tạo thêm nhiều việc làm và kích thích kinh tế, phát triển năng lượng sạch. Tuy nhiên, giống Tăng trưởng chi tiêu công. Nguồn: Eurostat Tăng trưởng đầu tư. Nguồn: Eurostat như Mỹ, Nhật cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ công tăng cao kỷ lục. Theo dự báo, nợ công của nước này sẽ lên con số 891,000 tỷ Yên, tương đương 184% GDP tính đến cuối tháng 3/2010. Đây là tỷ lệ nợ công cao nhất trong số các nước phát triển. KINH TẾ TRUNG QUỐC: Tiếp tục dẫn đầu tăng trưởng so với các nền kinh tế khác. Tuy nhiên, tăng trưởng nóng với lãi suất thấp và CPI tăng cao đang gây áp lực bong bóng tài sản lên các kênh đầu tư của nước này như TTCK và BĐS. Đây là mội nguy cơ lớn đe dọa sự phát triển của TQ sang năm 2011 Dự báo tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong cả năm 2010 có thể đạt 10.5% đứng đầu thế giới. Điều này tạo ra động lực kích thích các nền kinh châu Âu và Nhật Bản hồi phục. Tuy nhiên tỷ lệ lạm phát liên tục gia tăng của Trung Quốc từ 1,5% lên 5,1% trong năm 2010, trong khi tại Mỹ CPI giảm từ 2,6% xuống còn 1,1%, cho thấy tăng trưởng quá nóng khiến kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt với lạm phát cao. Bên cạnh đó TQ cũng đang đối mặt với tình hình bong bóng trên TTBĐS. Giá cả nhà đất tháng 11.2010 tăng 7.7%, tăng liên tiếp trong 18 tháng làm xuất hiện nguy cơ đổ vỡ quy mô lớn trên thị trường BĐS của Trung Quốc. NHTW Trung Quốc đã tăng lãi suất trong tháng 10, lần tăng đầu tiên trong 3 năm qua, nhằm hạn chế tăng trưởng tín dụng và hạ nhiệt TTBĐS. Tuy nhiên lãi suất này chưa thực sự hấp dẫn (lạm phát 5,1% trong khi lãi suất tiền gửi 2,5%/tháng) khiến cho nguồn vốn vào thị trường chứng khoán và bất động sản sẽ khó hạ nhiệt TTBĐS . Nguồn:Economic & Social Research Nguồn:Economic & Social Research NHẬN ĐỊNH CHUNG VÀ DỰ BÁO KINH TẾ THẾ GIỚI 2011 Theo Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới (WEO) mới nhất của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), mức tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2010 là khoảng 4.8% và năm 2011 sẽ hạ xuống 4.2%. Các nền kinh tế mới nổi có thể tăng trưởng 2.7% trong năm 2010, và 2.2% trong năm 2011 sau khi sụt giảm 3.2% vào năm 2009. Các nền kinh tế đang phát triển tiếp tục chứng kiến đà tăng trưởng mạnh mẽ, có thể vượt mức 7.1% trong năm 2010 và đạt 6.4% trong năm tới, ghi nhận bước tiến đáng kể so với mức mở rộng khiêm tốn 2.5% trong năm 2009. Kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 2.6% trong năm 2010 và 2,3% trong năm 2011 sau khi sụt giảm -2.6% vào năm 2009. Tỷ lệ tăng GDP năm 2010 và 2011 của Eurozone lần lượt là 1,7% và 1,5%. Về phần Nhật Bản, IMF nhận định GDP nước này tăng 2,8% trong năm 2010 và 1,5% trong năm 2011, sau khi sụt giảm tới -5.2% vào năm ngoái. GDP năm 2010 và 2011 của Trung Quốc được dự báo tăng lần lượt 10,5% và 9,6%. Thúc đẩy tiêu dùng, đề phòng lạm phát cùng thay đổi phương thức tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục là những “thử thách trí tuệ” giới hoạch định chính sách Bắc Kinh. Tốc độ tăng GDP của Trung Đông và Bắc Phi sẽ là 4,1% năm 2010 và 5,1% năm 2011, so với mức 2% năm 2009. IMF cũng dự báo năm 2011, Ấn Độ sẽ tăng trưởng 8,4%; Nga sẽ tăng trưởng 4,3%; và Braxin sẽ tăng trưởng 4,1%. Trong khi đó, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) dự đoán kinh tế Mỹ sẽ chỉ tăng trưởng 2,4 - 2,5% trong năm 2010 và sang năm 2011 sẽ tăng trưởng 3 - 3,6%. Lạm phát được cho là sẽ tăng 1,1% năm 2010 lên 1,7% năm 2011. Tỷ lệ thất nghiệp dự kiến vẫn là gần 10% cho đến đầu năm 2011, sau đó giảm nhẹ xuống còn 9,2% vào cuối năm 2011. Một số dự báo cho thấy năm 2011, trên phạm vi thế giới, chính sách của các quốc gia về cơ bản vẫn tích cực. Các chương trình cứu trợ tài chính đang được rút dần tuỳ theo tín hiệu của thị trường. Giá nguyên liệu có thể giảm mạnh, làm tăng lợi nhuận ở các nền kinh tế phát triển. Lạm phát và bong bóng tài sản thương mại đang tăng lên, nhưng chỉ xuất hiện ở một số nước, chứ không lan rộng ra quy mô toàn cầu. TÓM LẠI NHẬN ĐỊNH KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2011 Mặc dù mức độ hồi phục vẫn chưa đồng đều và vẫn còn nhiều rủi ro ảnh hưởng tới đà hồi phục của kinh tế toàn cầu, nhất là vấn đề nợ công đang ảnh hưởng khá nặng nề lên một số nước thuộc khối liên minh châu Âu và đe dọa tới tính ổn định của toàn hệ thống; bong bóng BĐS và lạm phát cao của TQ đe dọa sự phát triển của TQ và ảnh hưởng tới động lực phát triển kinh tế các nước. Tuy nhiên Kinh tế thế giới trong năm 2010 đã có dấu hiệu hồi phục khi tăng trưởng ở hầu hết các nền kinh tế đều là con số thực dương so với tăng trưởng âm năm 2009. Điều này sẽ giúp cho kinh tế thế giới đi vào chu kỳ tăng trưởng trong năm 2011. Dự báo kinh tế năm 2011 của IMF cho thấy mức độ tăng trưởng có giảm hơn năm 2010, nhưng điều đó cho thấy quan ngại về tái khủng hoảng là rất thấp. Sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ có thể làm đồng USD tăng giá, giá vàng sẽ mất động lực vào cuối năm 2011 và một nguồn vốn sẽ chuyển tới các nước đang phát triển tạo ra nhiều cơ hội đầu tư và tăng trưởng. Báo cáo kinh tế thế giới năm 2011 GDP 2008 2009 2010f 2011e World output 2.8% -0.6% 4.8% 4.2% Mỹ 0.0% -2.6% 2.6% 2.3% Nhật -1.2% -5.2% 2.8% 1.5% EU 0.5% -4.1% 1.7% 1.5% Trung Quốc 9.6% 9.1% 10.5% 9.6% ASEAN-5 4.7% 1.7% 6.6% 5.4% Nguồn: IMF 2. NHẬN ĐỊNH KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2011 TÓM LƢỢC TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM 2010 Kết thúc năm 2010, kinh tế Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng khá tốt. Cụ thể một số kết quả thực hiện được trong năm 2010 như sau: Sản xuất công nghiệp Nguồn: TCTK Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm nay chiếm tỷ trọng tới 42% toàn ngành công nghiệp và đạt tốc độ tăng cao nhất 17.2% (trong đó dầu mỏ và khí đốt ước đạt 31.7 nghìn tỷ đồng, giảm 1.7%; các ngành khác ước đạt 301.6 nghìn tỷ đồng, tăng 19.5%). Tiếp theo, khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm 35.9% và tăng 14.7%. Khu vực kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng thấp nhất trong giá trị sản xuất công nghiệp và tăng trưởng rất hạn chế, lần lượt là 22.1% và 7.4%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2010 ước tính đạt 1561.6 nghìn tỷ đồng, tăng 24.5% so với năm trước (nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 14%). Giá trị sản xuất công nghiệp cả năm 2010 ƣớc đạt 794.2 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2009, gần gấp đôi mức tăng trƣởng của năm 2009 so với năm 2008 (7.6%). Trong tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm nay, kinh doanh thương nghiệp đạt 1229.3 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2009; khách sạn, nhà hàng đạt 172.4 nghìn tỷ đồng, tăng 21.8%; dịch vụ đạt 144.6 nghìn tỷ đồng, tăng 23.8%; du lịch đạt 15.3 nghìn tỷ đồng, tăng 28.5%. Nguồn: TCTK Đầu tƣ Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2010 theo giá thực tế ước tính đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17.1% so với năm 2009 và bằng 41.9% GDP, trong đó có 1980 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương và 4487.5 tỷ đồng từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ được Thủ tướng cho phép ứng trước để bổ sung và đẩy nhanh tiến độ thực hiện một số dự án quan trọng hoàn thành trong năm 2010. Trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm nay, vốn khu vực Nhà nước là 316.3 nghìn tỷ đồng, chiếm 38.1% tổng vốn và tăng 10%; khu vực ngoài Nhà nước 299.5 nghìn tỷ đồng, chiếm 36.1% và tăng 24.7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 214.5 nghìn tỷ đồng, chiếm 25.8% và tăng 18.4%. Kinh tế phục hồi cùng tăng trƣởng cao trong đầu tƣ là động lực kích thích nhu cầu tiêu dùng của Việt Nam. Tuy nhiên, do hiệu quả đầu tƣ chƣa cao nên đã ảnh hƣởng tới chất lƣợng tăng trƣởng. Tăng trƣởng 24.5% nhƣng nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng này chỉ có 14%. Nguồn: Bộ KH – ĐT Xuất – Nhập khẩu Nhập siêu hàng hóa năm 2010 ước tính 12.4 tỷ USD, bằng 17.3% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, giảm 5.2 điểm phần trăm so với năm 2009. Nếu loại trừ vàng, kim loại quý và sản phẩm thì nhập siêu hàng hóa năm nay ước tính 14.2 tỷ USD, tương đương 20.7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 12/2010 ước tính đạt mức cao nhất so với các tháng trong năm với 7,1 tỷ USD, tăng 6,9% so với tháng trước và tăng 29,9% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó các mặt hàng tăng mạnh là: Cao su tăng 92,8%; hạt điều tăng 50,7%; gạo tăng 42,4%. Tính chung năm 2010, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009, bao gồm: Khu vực kinh tế trong nước đạt 32,8 tỷ USD, tăng 22,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 38,8 tỷ USD, tăng 27,8%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 33,9 tỷ USD, tăng 40,1% so với năm 2009. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 12/2010 ước tính đạt 8,5 tỷ USD, tăng 7% so với tháng trước, chủ yếu do đơn giá bình quân của nhiều mặt hàng tăng. Tính chung năm 2010, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 47,5 tỷ USD, tăng 8,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 36,5 tỷ USD, tăng 39,9%. Tăng trƣởng kinh tế năm 2010 đạt 6.78% trong khi đầu tƣ lên đến 42%GDP, hệ số ICOR lên đến gần 7 so với Trung Quốc và Ấn Độ là 4 – 5 đang cho thấy hiệu suất sử dụng vốn của Việt Nam rất thấp. Nguồn: TCTK Thu chi ngân sách Nhà nƣớc Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2010 ước tính bằng 109.3% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 107%; thu từ dầu thô bằng 99.7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 123.1%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 103.1%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 100.6%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 101%; thuế thu nhập cá nhân bằng 121.2%; thu phí xăng dầu bằng 101%; thu phí, lệ phí bằng 100.7%. Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2010 ước tính bằng 98.4% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 98.4% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản bằng 97.9%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 99.6%; chi trả nợ và viện trợ bằng 114.1%. Như vậy, bội chi NSNN năm 2010 bằng 5.8% GDP. Giảm 0.4% so với mục tiêu đặt ra. XK có xu thế tăng cho thấy VN đang hƣởng lợi từ sự phục hồi kinh tế thế giới. Tuy nhiên NK lại có xu hƣớng tăng mạnh hơn khiến nhập siêu cao. Vấn đề không chỉ do VN nhập nhiều hàng tiêu dùng xa xỉ mà do cơ cấu SX đòi hỏi nhập nhiều vật tƣ, giá trị gia tăng không lớn. Điều này sẽ tạo ra căng thẳng ngoại tệ, áp lực tỷ giá tăng. Bội chi NS trên GDP đã giảm từ 6.9% của năm 2009 xuống còn 5.8% năm 2010 là một dấu hiệu tốt. Tuy nhiên mức bội chi mày vẫn còn ở mức cao so với các năm trƣớc cho thấy sức tăng trƣởng của nền kinh tế còn phụ thuộc quá lớn vào nguồn vốn đầu tƣ nhà nƣớc. Nguồn: TCTK Chỉ số giá tiêu dùng Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2010 tăng 1.98% so với tháng trước, mức tăng cao nhất trong năm nay đồng thời là tháng thứ 4 liên CPI tháng của cả nước tăng trên 1%. Như vậy, lạm phát cả năm 2010 của Việt Nam đã lên tới 11.75%, vượt xa so với mục tiêu kiềm chế lạm phát dưới 8% của chính phủ. Xét tới các nguyên nhân tác động tới CPI cuối năm, giá cả hàng hóa và sản phẩm công nghiệp tăng là những nguyên nhân chính gây ra tình trạng lạm phát tăng cao. Với một nền kinh tế mở cửa (tỷ trọng thương mại so với GDP lên đến 150%) và đồng tiền đang mất giá. Giá cả hàng hóa thế giới tăng cao cũng ảnh hưởng tới mặt bằng giá cả trong nước. Ngoài ra, giá lương thực trong nước tăng cũng do các cú sốc cung, trong đó có nguyên nhân thiên tại lụt lội nghiêm trọng ở các tỉnh miền Trung cùng việc Hà Nội tổ chức đại lễ 1000 năm Thăng Long. Nguồn: TCTK Về cơ bản, thố
Tài liệu liên quan