Nhân sinh quan trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Tóm tắt Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, trải qua hàng nghìn năm đã hun đúc những giá trị nhân văn cao đẹp. Trong những giá trị ấy, có những giá trị chịu ảnh hưởng bởi tác động của các yếu tố tư tưởng bên ngoài như: tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Tuy vậy, có những yếu tố nội sinh đã làm nên bản sắc, cốt cách của con người Việt Nam chúng ta, trong những yếu tố đó có giá trị đạo thờ cúng tổ tiên được thể hiện rất đậm nét. Thờ cúng tổ tiên có giá trị và ý nghĩa bao trùm mọi hoạt động trong đời sống sinh hoạt cá nhân, cộng đồng, nó hướng con người ta tới cội nguồn và là một trong những động lực thúc đẩy cho xã hội phát triển. Vì vậy, trong giai đoạn ngày nay với những tác động của quá trình phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, việc nghiên cứu nhân sinh quan trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt càng có ý nghĩa quan trọng. Trong bài viết này, tác giả chỉ tập trung làm rõ ý nghĩa và giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt qua nghiên cứu những quan niệm chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, từ đó phân tích những biểu hiện chính trong các giá trị văn hóa thờ cúng tổ tiên của người Việt và đưa ra một số giải pháp để duy trì và bảo tồn những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong bối cảnh mới hiện nay.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân sinh quan trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 101 NHÂN SINH QUAN TRONG TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT BELIEFS IN ANCESTORS WORSHIPING OF VIETNAMESE PEOPLE Trần Hoàng Yến Email: yendhsd @gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 29/10/2017 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 13/3/2018 Ngày chấp nhận đăng: 28/3/2018 Tóm tắt Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, trải qua hàng nghìn năm đã hun đúc những giá trị nhân văn cao đẹp. Trong những giá trị ấy, có những giá trị chịu ảnh hưởng bởi tác động của các yếu tố tư tưởng bên ngoài như: tư tưởng Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Tuy vậy, có những yếu tố nội sinh đã làm nên bản sắc, cốt cách của con người Việt Nam chúng ta, trong những yếu tố đó có giá trị đạo thờ cúng tổ tiên được thể hiện rất đậm nét. Thờ cúng tổ tiên có giá trị và ý nghĩa bao trùm mọi hoạt động trong đời sống sinh hoạt cá nhân, cộng đồng, nó hướng con người ta tới cội nguồn và là một trong những động lực thúc đẩy cho xã hội phát triển. Vì vậy, trong giai đoạn ngày nay với những tác động của quá trình phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, việc nghiên cứu nhân sinh quan trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt càng có ý nghĩa quan trọng. Trong bài viết này, tác giả chỉ tập trung làm rõ ý nghĩa và giá trị trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt qua nghiên cứu những quan niệm chung về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, từ đó phân tích những biểu hiện chính trong các giá trị văn hóa thờ cúng tổ tiên của người Việt và đưa ra một số giải pháp để duy trì và bảo tồn những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong bối cảnh mới hiện nay. Từ khóa: Tín ngưỡng; thờ cúng tổ tiên; văn hóa tín ngưỡng; văn hóa người Việt; văn hóa thờ cúng tổ tiên. Abstract In the history of building and defending our nation, thousands of years have molded the noble human values. In those values, there are values influenced by external factors such as Confucianism, Taoism, Buddhism, etc. However, there are endogenous factors that make up the identity and personality of our Vietnamese people, among them valuable values of worship of ancestors are expressed very dramatically. Ancestor worshipping has the value and meaning that covers every activity in the life of the individual, the community, it directs people to the roots and is one of the motivations for social development. Thus, in today’s period with the impact of strong socio-economic development, the impact of the technological revolution, the study of human life in the ancestor worshiping of Vietnamese people is more and more important. In this article, the author only focuses on clarifying the meaning and value of Vietnamese ancestor worshiping by studying the common notions of ancestor worship and analyzing the main manifestations in the cultural values of the ancestors of the Vietnamese and then offer some solutions to preserve the good values of ancestor worshiping in the new context. Keywords: Beliefs; worshiping ancestors; cultural beliefs; Vietnamese culture; Ancestor worshiping culture. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng có lịch sử từ lâu đời mang tính phổ biến của người Việt. Nó có ý nghĩa rất lớn nhằm nhắc con cháu đang sống phải nhớ đến nguồn gốc, cội nguồn của bản thân. Chính vì vậy, phải biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc sinh thời, thờ phụng khi mất. Thờ cúng tổ tiên được coi là một nét tinh hoa của truyền thống văn hóa, và đã trở thành đạo lý, lẽ sống của người Việt. Trong xã hội ngày nay, thờ cúng tổ tiên có ý nghĩa to lớn trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân trong gia đình, xã hội và dân tộc ta. 102 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN Tín ngưỡng là “sự tin tưởng vào sức mạnh của một đấng thiêng liêng và những giáo lý của một tôn giáo” [2, 823]. Nhân sinh quan là quan niệm, suy nghĩa về toàn bộ hoạt động sống của con người. Theo C.Mác cho rằng: “Đời sống xã hội, về thực chất là có tính chất thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy” [4, 12]. Tổ tiên là khái niệm để chỉ những người có cùng huyết thống, đã mất như: kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ,... là những người có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của các thế hệ con cháu. Tổ tiên còn là người có công truyền nghề, tạo dựng cuộc sống hiện tại cho con cháu được tôn thành các tổ sư, nghệ tổ,.... Như vậy, khái niệm tổ tiên được mở rộng, không chỉ bó hẹp trong phạm vi tổ tiên cùng huyết thống. Như vậy: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một bộ phận của ý thức xã hội, là một hình thức tín ngưỡng được hình thành từ thời nguyên thủy trước hết là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ những người có công sinh thành, tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như: kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ, tổ sư, tổ nghề, thành hoàng làng, tổ nước,... đồng thời với một niềm tin thiêng liêng rằng, tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù giúp cho con cháu, có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát tài, phát lộc, thăng tiến trong công danh, sự nghiệp. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (TNTCTT) được hiểu theo hai nghĩa: - Nghĩa hẹp: TNTCTT là sự thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ - những người có cùng huyết thống đã chết, những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng con cháu. - Nghĩa rộng: TNTCTT không chỉ mở rộng huyết thống từ gia đình đến họ tộc mà còn mở rộng ra cả tổ tiên làng xã, đất nước bao gồm cả việc thờ trời đất, thờ người có công dựng nước và giữ nước, có công với cộng đồng, làng xóm và cả những thần linh liên quan đến cuộc sống của con người. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có ba cấp độ: quốc gia; làng xã; gia đình (Bài này tác giả nghiên cứu hai cấp độ gia đình và làng xã). - Gia đình: thờ kỵ cụ, ông bà, cha mẹ đã khuất. - Làng xã: thờ thành hoàng làng - là những tổ nghề, những người có công khai phá vùng đất mới; dựng làng lập ấp, đánh giặc cứu dân. - Đất nước: thờ vua như một vị thần của quốc gia mà điển hình là vua Hùng. 3. THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT LÀ SỰ THỂ HIỆN ĐẠO HIẾU - ĐẠO LÀM NGƯỜI Không giống người phương Tây thiên về tư duy hướng ngoại, người Việt thiên về tư duy hướng nội, việc chiêm nghiệm về thế giới bên ngoài không được chú trọng bằng thế giới nội tâm. Do ảnh hưởng của Nho giáo, người Việt đã rất chú trọng tới việc xây dựng gia đình theo chế độ tông pháp - lấy gia đình, dòng họ là đơn vị cơ sở của xã hội. Trong gia đình, dòng họ, điều cốt lõi là con người phải có hiếu. Hiếu là biểu hiện của nhân. Hiếu còn gắn với trung, là nguồn gốc của trung. Trước đây, các triều đại phong kiến Việt Nam đều đề cao chữ hiếu, lấy hiếu để củng cố gia đình và ổn định xã hội. Hiếu được xem như một chuẩn mực đạo đức xã hội và cũng là thước đo lòng trung thành với vua. Trong ý thức hệ của người Việt, hiếu kính với cha mẹ, không chỉ thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của đạo làm con mà hiếu kính với cha mẹ nó thể hiện tình cảm, lòng biết ơn, sự thành kính của những người làm con đối với bậc sinh thành. Trong tâm thức của người Việt, công cha nghĩa mẹ, như trời cao, đất dày. Làm con phải thảo kính với cha mẹ lúc còn sống phải chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ lúc về già. Cha mẹ đau ốm, con cái phải luôn bên cạnh động viên, thuốc thang, sớm hôm nâng giấc. Khi cha mẹ về với tổ tiên thì đau buồn, thương tiếc, lòng thành kính cẩn. Từ ngàn xưa, người Việt đã có câu “khi sống thì chẳng cho ăn, đến khi chết mới làm văn tế ruồi” để chê bai những kẻ làm con không biết giữ tròn đạo hiếu với ông bà, cha mẹ, lúc sống, thì đến lúc ông bà, cha mẹ không còn nữa dù có cúng mâm cao, cỗ đầy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với người Việt, ngày giỗ cha mẹ, tổ tiên có ý nghĩa thiêng liêng về mặt tâm linh thể hiện sâu sắc ý thức, lòng biết ơn công sinh thành của cha mẹ, tổ tiên, một sự thành tâm, tưởng niệm người đã khuất, đồng thời còn có ý nghĩa sum họp anh em, chú bác trong gia đình và đoàn kết, thân ái trong gia tộc. Anh, em, con, cháu sum vầy, hỏi han về công việc, sức khỏe, bảo ban những điều hay, lẽ phải, nhắc nhở để cùng nhau tiến bộ. NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 103 Đạo hiếu của người Việt không chỉ dừng lại ở tư tưởng, quan niệm trong gia đình, xã hội, nó còn được thể chế hóa bởi luật pháp của nhà nước phong kiến. Điển hình là, trong bộ luật triều Lê sơ đã qui định rất rõ nghĩa vụ của con cháu đối với ông bà, cha mẹ “Đạo làm con phải hiếu kính cha mẹ, khi tuổi già phải sớm khuya phụng dưỡng, không được để thiếu thốn, cũng là không được bắt buộc các con làm việc quá khó nhọc mới cấp cho ăn uống. Các việc tế tự và tang táng thì phải căn cứ vào lễ ký, như thế mới hết đạo làm con. Đạo làm anh em trong gia đình phải cùng nhau hòa thuận. Anh thì yêu em, em thì kính anh, chớ nên tranh nhau tài sản; chớ nên nghe lời vợ mà quên nghĩa cốt nhục. Đạo làm vợ chồng phải cùng kính yêu nhau, dốc lòng ân nghĩa,... vợ phải kính thờ cha mẹ chồng và không được trái lời dạy bảo của chồng, không được dòng dỗ ghen tuông, mà cũng không nên chán cảnh nghèo đói đến nỗi bỏ nhau để bại điều phong hóa. Làm cha mẹ phải biết sửa mình để ngay thẳng gia đình, lấy nghĩa lý dạy con trai, lấy nữ công nữ tắc dạy con gái. Nếu cha mẹ không biết dạy dỗ con cái, (và) con trai, con gái không chịu nghe lời dạy bảo thì cho phép các viên phường xã, thôn trưởng được tố giác với các nha môn. Nếu lỗi nhỏ thì trừng phạt bằng roi vọt, nếu lỗi lớn thì chiếu phép trị tội” [3, 141-142]. Như vậy, đạo hiếu đòi hỏi mỗi thành viên trong cộng đồng phải hiếu kính ông bà, cha mẹ, phụng dưỡng khi sống, hiếu đễ với anh em, thuận hòa với hàng xóm. Ai làm trái với đạo hiếu chẳng những bị dư luận lên án, chê bai mà còn bị luật pháp trừng trị. Lúc sống là vậy, còn khi chết thì sao? Nho giáo ít chú ý tới lẽ tử sinh, rằng chưa biết được việc sống thì sao biết được việc chết. Người ta cho giàu sang tại mệnh, phú quý tại trời. Trời - đất - người hợp nhất, cùng một bản thể. Con người giống như một “tiểu vũ trụ” linh ứng với những đổi thay, chịu sự qui định của “đại vũ trụ” (trời - đất). Con người do trời, đất sinh ra, khi chết con người lại trở về với đất, trời. Theo thuyết âm dương, ngũ hành thì con người là âm dương hòa hợp, ngũ hành sinh khắc. Khi chết thì thể xác tan ra thành đất, chỉ còn tinh anh (tinh thần). Do đó hiếu tử như hiếu sinh, hiếu với người chết, thực hiện các nghi lễ tang ma, giỗ chạp, đồng thời cũng phải đối xử tốt với cha mẹ, ông bà đang sống. Nho giáo là học thuyết thiên về mặt chính trị - xã hội và đạo đức, mang tính nhập thế rất rõ. Các nghi thức cúng giỗ và tang ma của người Việt chủ yếu dựa trên sự mô phỏng các nghi thức của Nho giáo, do đó cũng mang tính thực tiễn. Đối xử với người chết không chỉ dừng lại ở đó, mà chủ yếu, thông qua đó là thể hiện sự đối xử với người đang sống. Là sự nhắc nhở người đang sống, làm cho người đang sống tự điều chỉnh hành vi của mình trong mối quan hệ với cộng đồng. Tuy nhiên, những quan niệm sinh, tử của Nho giáo cũng chứa đựng những yếu tố duy tâm, thần bí góp phần làm phức tạp thêm nghi thức thờ cúng, tang ma, làm cơ sở cho mê tín, dị đoan hình thành và tồn tại. Là sợi dây trói buộc con người bởi các nghi lễ khắt khe. Trong cuộc sống văn minh, hiện đại, nhiều cái đã trở thành hủ tục, lạc hậu cần phải phê phán, loại bỏ. Như vậy, đạo hiếu - đạo làm người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các nguyên tắc ứng xử của người Việt, thể hiện triết lý nhân sinh vừa dung dị, mang tính thực tiễn, tính phổ quát, vừa sâu sắc. Phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc sống, thờ phụng khi chết, không chỉ là tín ngưỡng mà còn là lẽ sống, được hình thành, bồi đắp qua bao thế hệ và trở thành tục lệ ăn sâu trong tiềm thức của mỗi người. Từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thờ phụng là cả một quá trình. Tư tưởng triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt được thể hiện sinh động qua hệ thống nghi lễ và nội dung thờ cúng tổ tiên ở cộng đồng gia đình, họ tộc, làng và nước. Đó là ý thức tưởng nhớ về cội nguồn. 4. THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT LÀ Ý THỨC TƯỞNG NHỚ VỀ CỘI NGUỒN Thời nguyên thủy, người ta cho rằng, vạn vật trong vũ trụ kể cả trời, đất đều có cội nguồn của mình. Bước sang xã hội có giai cấp, nhận thức của con người về cội nguồn của mình đã bớt yếu tố thần thoại, mang nội dung thiết thực hơn. Nếu như chim có tổ, cây có rễ, nước có nguồn thì con người cũng có tổ tông. Do đó, ý thức tưởng nhớ, biết ơn tổ tiên được hình thành, phát triển và được khẳng định thành đạo lý, lẽ sống,... Đạo lý biết ơn và tiếp tục nối dõi truyền thống tổ tiên được thể hiện thông qua các nghi thức thờ cúng có tính chất huyền bí thiêng liêng. Do ảnh hưởng của tam giáo, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt có những nét mô phỏng theo nghi lễ Nho giáo song lại có những yếu tố gần gũi với Phật giáo và Đạo giáo. Những tư tưởng triết học trong tam giáo đã ảnh hưởng khá sâu sắc tới hình thức và nội dung thờ cúng tổ tiên. Trong mỗi gia đình đều thiết lập bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên là không gian thiêng liêng để các 104 NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 thành viên gia đình thể hiện, gửi gắm lòng tưởng nhớ, biết ơn tiên tổ. Bàn thờ là nơi tổ tiên “đi”, “về” và ngự trên đó. Bàn thờ tổ tiên thường được lập cố định, ở chỗ trang trọng nhất, gian chính giữa của nhà trên. Đây là sự khác biệt với một số dân tộc khác. Việc bài trí trên bàn thờ gia tiên thường không hoàn toàn giống nhau, điều này phụ thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung, một bàn thờ gia tiên thường được chia làm hai lớp, giữa hai lớp được ngăn bằng một bức y môn bằng vải che rủ. Lớp trong đặt long khám của thần chủ (ngai hoặc ỷ, tượng trưng cho cho ngôi vị của tổ tiên), bộ đồ thờ để đặt hộp trầu, chén nước, đĩa hoa quả,... Lớp ngoài là hương án, trên đặt bình hương, đèn, ống hương, mâm bồng,... Ngày thường y môn được vén lên, chỉ khi nào có lễ, sau khi con cháu thắp hương khấn mời thì y môn mới được buông rủ xuống. Theo cách giải thích dân gian, làm như thế để tổ tiên được hưởng lễ một cách tự nhiên, không cho ai nhìn ngó, quấy nhiễu. Ngoài ra, bàn thờ của các gia đình giàu có hoặc đại gia khoa bảng còn treo các bức hoành phi ở bên trên, câu đối ở hai bên, được sơn son thếp vàng. Nếu như hoành phi, câu đối trong nhà thờ họ, tông tộc mang nặng tính tổng kết, phô trương và tôn vinh dòng họ để làm gương cho hậu thế thì hoành phi, câu đối ở bàn thờ gia tiên thường được viết với nội dung bày tỏ lòng thành kính, biết ơn, hoặc lời hứa của con cháu đối với tổ tiên. Bài vị tổ tiên thường được làm bằng gỗ mít (vì gỗ mít không mọt, có mùi thơm, cây mít thường sai quả, mỗi múi có một hạt, mỗi hạt sẽ phát triển thành một cây, tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở dồi dào), ghi tên tuổi các vị tổ. Bộ đồ thờ của những gia đình bình dân thường đơn giản, thường là bộ tam sự, gồm bát hương ở giữa và hai bên là hai cây đèn, nến. Theo thuyết âm dương ngũ hành thì bát hương thể hiện hành thổ, nên ở giữa (trung tâm). Hai cây đèn nến thể hiện hành hỏa. Nén hương đốt lên có cả ba yếu tố: hỏa (phần đang cháy), mộc (phần thân hương) và thổ (phần chân hương cắm trong bát hương). Mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, sự chuyển hóa thể hiện ước vọng sinh sôi, phát triển. Nếu theo Đạo giáo thì bát hương tròn tượng trưng cho bàn thái cực, hương được thắp lên tượng trưng cho các vì tinh tú. Hai cây đèn tượng trưng cho nhật, nguyệt quang minh. Những gia đình khá giả, đồ thờ phụng là bộ ngũ sự hay thất sự. Bộ ngũ sự gồm bát hương, hai cây đèn nến, lọ độc bình, mâm bồng ngũ quả, cái kỷ hay còn gọi là tam sơn gồm bộ đài ba chiếc: giữa đặt chén rượu, hai bên, một bên để đĩa trầu cau, một bên để bát nước. Rượu và nước mang tính âm, hành thủy. Khi thắp hương, đèn nến cúng vái, âm dương hòa hợp, mọi việc tốt lành. Lọ độc bình thường để cắm hoa huệ trắng, hoa hải đường, hoa đào ngày tết. Cành hoa hành mộc, cắm vào nước (thủy sinh mộc) ý nghĩa là khai hoa, tươi tốt quanh năm. Mâm bồng để đựng hoa quả. Có hoa, có quả thể hiện ước vọng thịnh đạt. Ngày tết, hoa quả cúng thường là 5 loại (ngũ quả): quả bưởi (bòng) màu vàng đặt ở giữa, hành thổ; quả cam giấy màu đỏ hành hỏa; nải chuối xanh hành mộc; quả hồng xiêm màu nâu tối, hạt đen hành thủy; quả na ruột trắng hành kim. Ngũ quả thể hiện ngũ hành, tương sinh tương khắc, tạo nên muôn vật trong thế giới vũ trụ. Ý thức về cội nguồn được thể hiện tập trung ở lễ giỗ. Giỗ gia tiên là kỷ niệm ngày qua đời của người mất. Theo Thọ Mai gia lễ, giỗ một năm ngày qua đời là giỗ đầu, còn gọi là tiểu tường. Giỗ năm thứ hai là giỗ hết hay còn gọi là đại tường. Sau đại tường là hết tang. Từ năm thứ ba là giỗ thường hay gọi là cát kỵ. Cát kỵ là ngày giỗ lành. Đó là ngày cháu con tụ hội để cúng lễ, tưởng nhớ người qua đời, sự tụ hội này là điều lành, tốt đẹp. Giỗ thường hay cát kỵ là ngày giỗ sau cải táng, tức là sau khi đã tống trùng, vong hồn không về quấy nhiễu, và trong ngày cát kỵ không còn khóc lóc nữa, mà chủ yếu mang tính chất vui liên hoan của con cháu, nhắc nhở lại công lao đạo đức của ông bà (hoặc cha mẹ) như một tấm gương có tác dụng giáo dục đối với người sống. Lễ phẩm thì tùy, to sang thì dùng bò, lợn, dê, nếu không cũng sửa vài mâm cỗ, hoặc thủ lợn mâm xôi, chí ít cũng phải đĩa xôi con gà, hoặc bát cơm quả trứng, con cá, bát canh, còn lễ chay thì oản quả, xôi chè... tùy thuộc gia cảnh và nội dung ngày lễ, nhưng điều thiết yếu là đồ lễ phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Khi tiệc rượu đã tàn, khách đã vãn, gia chủ cúng thêm tuần hương nữa rồi mới lễ tạ và hóa vàng. Một nghi thức cần thiết là lúc hóa vàng phải đổ theo vào đống lửa một chén rượu cúng. Chén rượu này làm vàng mã bốc cháy, song ý nghĩa của việc làm là cốt biến vàng mã trên trần thành vàng thật, đồ dùng thật dưới âm, cho người âm. Nghi thức cúng giỗ rất trang trọng, thành kính. Người con trai trưởng ăn mặc chỉnh tề đứng trước NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 1(60).2018 105 bài vị gia tiên khấn mời gia tiên về hâm hưởng, giỗ của ai thì mời người đó về trước sau đó mời đến những người theo thứ bậc từ trên xuống dưới theo gia phả, để phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, phát đạt, công thành danh toại. Trước đây khấn gia tiên thường dùng văn Thọ Mai để khấn, hiện nay khi đời sống có sự thay đổi nhất định, nhiều người không hiểu chữ nghĩa nên thường thì khấn theo văn nói. Việc thờ cúng tổ tiên được người Việt rất tôn trọng, vì việc cúng giỗ nghiêm túc là thể hiện đạo hiếu. Cho nên gửi giỗ là nghĩa vụ nhưng người ta còn muốn nhân ngày giỗ là cơ hội để họp mặt anh em, con cháu trong nhà mà hàng năm phải xa cách nhau vì sinh kế, thắt chặt thêm tình thân giữa những người cùng huyết thống bằng sợi dây tâm linh tình nghĩa. 5. THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT LÀ NÉT ĐẸP TRONG SINH HOẠT VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG Nhà - họ - làng - nước là cơ cấu xã hội truyền thống của người Việt trong lịch sử. Trong xã hội, diện mạo của mỗi cá nhân rất mờ nhạt, dường như người ta chỉ biết đến “anh ta” là con nhà ai, người họ nào, làng nào. Nhà nước quản lý dân đinh của mình thông qua bộ máy quản lý làng xã, việc phân bổ nghĩa vụ binh lính, phu phen tạp dịch được căn cứ theo kê khai của bộ phận chức dịch của làng. Trong tình hình như vậy, làng thực sự đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa những thà