Nhân vật quan chức tích cực trong tiểu thuyết “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng

TÓM TẮT Do bối cảnh xã hội nhiễu nhương ở Việt Nam đầu thế kỷ XX nên các nhà văn hiện thực phê phán luôn xây dựng các nhân vật quan chức xấu xa. Vũ Trọng Phụng lại đem đến cho người đọc hình ảnh những vị quan chức tốt đẹp. Đó là viên Tri huyện có học thức, chuộng công lý và giàu lòng tự trọng. Đó là viên Công sứ người Pháp giàu lòng nhân ái, luôn bênh vực cho lẽ phải, thẳng tay trừng trị cấp dưới làm sai. Xây dựng nhân vật tích cực, Vũ Trọng Phụng thể hiện đúng mục đích sáng tác tôn trọng tính chân thực hiện thực của mình.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân vật quan chức tích cực trong tiểu thuyết “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 70 (04/2020) No. 70 (04/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 52 NHÂN VẬT QUAN CHỨC TÍCH CỰC TRONG TIỂU THUYẾT “GIÔNG TỐ” CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG The characters of positive officials in “Giông tố” novel by Vũ Trọng Phụng TS. Đặng Văn Vũ Trường Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Do bối cảnh xã hội nhiễu nhương ở Việt Nam đầu thế kỷ XX nên các nhà văn hiện thực phê phán luôn xây dựng các nhân vật quan chức xấu xa. Vũ Trọng Phụng lại đem đến cho người đọc hình ảnh những vị quan chức tốt đẹp. Đó là viên Tri huyện có học thức, chuộng công lý và giàu lòng tự trọng. Đó là viên Công sứ người Pháp giàu lòng nhân ái, luôn bênh vực cho lẽ phải, thẳng tay trừng trị cấp dưới làm sai. Xây dựng nhân vật tích cực, Vũ Trọng Phụng thể hiện đúng mục đích sáng tác tôn trọng tính chân thực hiện thực của mình. Từ khóa: công lý, nhân ái, nhiễu nhương, Vũ Trọng Phụng ABSTRACT In the context of a turbulent society in Vietnam in the early twentieth century, while critical realism writers always developed the characters of corrupted officials, Vũ Trọng Phụng gave readers the figure of incorruptible officials. It was an educated district governor with a high sense of justice and self-respect. It was a compassionate French envoy that always defended the right, punished his subordinates for wrongdoing. Building positive characters, Vũ Trọng Phụng expressed the purpose of the composition which respected his realistic nature. Keywords: justice, kindness, turbulent, Vũ Trọng Phụng 1. Mở đầu Trong lịch sử văn học Việt Nam, hiếm có tác giả nào mà sáng tác của họ có tính phổ quát và tính dự báo cao như Vũ Trọng Phụng. Đến bây giờ, đọc lại Vũ Trọng Phụng, nhiều vấn đề làm ta cứ ngỡ là tác giả họ Vũ đang viết về chuyện hôm nay, thời đại này chứ không phải là chuyện của tám mươi năm về trước. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX là một xã hội đầy biến động với chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến. Ở đó, quan lại người Pháp và người Việt bắt tay nhau để bóc lột, hà hiếp dân lành. Đó là lý do để các nhà văn Hiện thực phê phán xây dựng nhân vật quan lại hầu hết là độc ác xấu xa. Vũ Trọng Phụng cũng không đi ra ngoài xu hướng đó. Tuy nhiên, bên cạnh xây dựng các nhân vật quan chức tiêu cực, ông cũng đã khắc họa khá thành công các nhân vật quan chức tích cực. Điều này thể hiện cái nhìn có tính khách quan, tôn trọng hiện thực, vốn là mục đích hướng đến cho cả quá trình sáng tác của nhà văn. 2. Nội dung Nhân vật văn học là con người, con vật hay đồ vật đã được nhân cách hóa, Email: trieuvu68@gmail.com ĐẶNG VĂN VŨ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 53 được thể hiện trong văn học bằng phương tiện văn học. Nhân vật văn học là sản phẩm tinh thần của nhà văn, là nơi nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật cũng như lí tưởng thẩm mĩ của mình về con người. Thông qua nhân vật văn học, nhà văn được thể hiện cách nhìn, cách đánh giá, từ đó bộc lộ những trăn trở của mình về con người trước hiện thực cuộc sống. Quan chức là người nắm giữ một chức vụ nào đó trong bộ máy nhà nước. Quan chức là bộ mặt của một thể chế. Thể chế tốt sẽ chọn được những quan chức tốt, và ngược lại. Để có thể phán ánh hiện thực và bộc lộ tư tưởng, trong tiểu thuyết Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nhiều nhân vật quan chức tiêu cực. Bên cạnh đó, nhà văn cũng chú trọng khắc họa hai nhân vật quan chức tích cực. 2.1.1. Nhân vật tri huyện Cúc Lâm Nếu như nhân vật Nghị Lại trong tác phẩm Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, nhân vật Nghị Quế trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, nhân vật Bá Kiến trong Chí Phèo của Nam Cao là những tên cáo già tham lam, độc ác, gian xảo vô độ; thì Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công một hình tượng nhân vật quan chức trẻ rất tốt đẹp, có học vấn đến tiến sĩ Luật ở một nền giáo dục tiến tiến là nước Pháp. Trước hết, ta thấy đây là vị quan chức được bổ nhiệm từ học vị nghiêm túc của mình chứ không phải là chạy chọt. Ông ta tự hào về điều đó và khẳng khái đáp lại quan Tổng đốc: “Vâng, quả là tôi có nhiều tư tưởng không hợp với chế độ cũ. Bẩm cụ lớn, nhưng mà không phải tự tôi đi chạy chọt cái tri huyện” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.51). Có thể Vũ Trọng Phụng xây dựng nhân vật này trên tình thần lý tưởng hóa, hay là sự mơ ước của ông. Nhưng trên thực tế, từ trước đó, người Pháp đã mở trường dạy học bằng tiếng Pháp ở Việt Nam và đưa nhiều học sinh ưu tú qua Pháp để đào tạo. Những người này khi trở về Việt Nam đã có công rất lớn trong công cuộc hiện đại hóa nước Việt về kinh tế cũng như văn hóa xã hội. Viên Tri huyện là sản phẩm của nền giáo dục hiện đại Pháp. Với tấm bằng Tiến sĩ Luật khoa, ông ta có một sự tự tin rất lớn khi được bổ nhiệm, và đương nhiên, ông không việc gì phải “chạy chọt” trong cơ chế tuyển dụng quan chức đương thời. Câu nói: “Bẩm cụ lớn, nhưng mà không phải tự tôi đi chạy chọt cái tri huyện” như một cú tát vào tên quan Tổng đốc mà chắc chắn Tri huyện biết rõ con đường hoạn lộ của ông ta. Phẩm chất quan trọng nhất của một vị quan chức là sự thanh liêm. Cơ sở của sự thanh liêm có nhiều, nhưng tinh thần cống hiến, phụng sự công lý được coi là trực tiếp nhất. Sự tham lam vô độ của quan chức trong chế độ thực dân phong kiến được phản ánh khá phong phú trong văn học Hiện thực phê phán. Trong bức tranh tối màu ấy, nổi lên phẩm chất thanh liêm sáng ngời của Tri huyện Cúc Lâm. Vốn là tên lưu manh, gian xảo và cáo già trong quan hệ với tầng lớp quan lại, trước nguy cơ phải đền tội, Nghị Hách đã cho người đàn bà khôn khéo lên “thương lượng” với Tri huyện. Và đây là kết quả: “Cái đó tôi có biết. Người đàn bà ấy cũng đã khôn khéo lắm lắm, song tôi không thể làm vui lòng ngài được” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.48) “Không làm vui lòng ngài được” tức là không nhận sự “điều đình” của “đặc phái viên” của lão Nghị khét tiếng gian manh. Tri huyện rất khác với đa số quan lại thời bấy giờ. Rất nhiều người xác định làm quan là để kiếm chác, chẳng thế mà dân gian có câu: “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”. Nhưng Tri huyện SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 54 là một vị quan hiếm hoi ở xứ An Nam làm quan là để cống hiến cho “thần Công lý” chứ không phải làm quan để vơ vét của nhân dân, để vinh thân phì gia: “Nếu tôi định bụng kiếm chác gì ông, thì từ hôm nọ, tôi đã nhận lời với người đàn bà mà ông phái lên điều đình rồi còn gì” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.49). Sự gian manh của Nghị Hách đương nhiên Tri huyện cũng biết, nếu không chiều lòng ông ta, Tri huyện rất dễ bị hắn hãm hại. Biết thế, nhưng với bản lĩnh của người trí thức, ông ta không hề run sợ trước cái ác. Do không có tính nhận hối hộ nên Tri huyện đi công việc bằng xe ngựa: “Rồi ông huyện lảng chuyện bằng cách phán cho tên lính lệ: - Bảo xà ích đánh cái xe ngựa ra để tao lên tỉnh đi mày! Tên lính dạ một cái rồi thụt vào cửa sau”. Điều ấy khiến Nghị Hách ngạc nhiên, nên ông ta nói: “Quan lớn tiết kiệm quá nhỉ? Sao ngài lại chưa tậu ô tô?”. Tậu ô tô là mốt thời thượng của quan chức thời bấy giờ. Làm đến chức Tri huyện, việc ấy không có gì khó, tuy nhiên như ông nói: “Tôi không có nhiều tiền như những ông quan khác”. Không có tiền là bởi ông không kiếm tiền bằng mọi giá, không đổi lấy phẩm giá của mình để có tiền như bao ông quan khác nhan nhản trong xã hội. Thái độ của Tri huyện rất dứt khoát, việc gì ra việc nấy: “Ông huyện đứng nghĩ một lát rồi mỉm cười nói: - Vì việc tôi cần lên tỉnh sớm, nên tôi bằng lòng đi xe hơi của ông, thế thôi. Còn tậu lại thì không, dù là ông chỉ để lại cho tôi bằng một đồng bạc” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.48). Trong phát ngôn này của Tri huyện, ta thấy hai điều. Thứ nhất, nó thể hiện phong thái của một con người văn minh. Đó là việc gì ra việc nấy, không nhập nhằng theo kiểu “Yêu nhau yêu cả đường đi/ Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”. Tri huyện rất ghét Nghị Hách, nhưng ông cũng không từ chối lời đề nghị đi cùng xe với lão ta. Thứ hai, Tri huyện nói mua lại xe của Nghị Hách dẫu có một đồng cũng không. Thái độ dứt khoát này là rất hiếm trong bối cảnh kim tiền thống soái xã hội thời bấy giờ. Do vậy, sự từ chối ấy cho thấy bản lĩnh vững vàng “bần tiện bất năng di” của Tri huyện. Một vị quan chức có lòng tự trọng thường chọn từ chức khi không hoàn thành nhiệm vụ hoặc bị sức ép vô lý từ cấp trên. Tri huyện trước khi từ chức đã mạnh dạn bày tỏ thái độ thất vọng trước vị quan bề trên: “Ông huyện cúi đầu 15 phút rồi ngẩng lên cười nhạt nói: - Bẩm cụ lớn, tôi tưởng tôi ra làm quan được thì tôi làm được một việc ích quốc lợi dân! Bây giờ như thế này, tôi mới biết là tôi đã nhầm...” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.51). Trong cái đầu trong veo của một người trí thức thực thụ, ông Huyện nghĩ rằng làm quan là để phụng sự nhân dân, làm cho đất nước ngày càng tiến bộ. Ống hăm hở ra làm quan để hiện thực hóa ước mơ ấy. Thế nhưng, ông đã hoàn toàn thất vọng. Chính vì biết mình đã nhầm, cộng với sự hăm dọa của quan tổng đốc sẽ đày đi xa, nên ông dứt khoát gửi đơn từ chức: “Bẩm cụ lớn, nhà nước không cần phải đổi tôi đi xa! Dù tôi không đi làm thì tôi cũng không chết đói ạ Thế thì xin cụ lớn biết cho là ngay bây giờ, phải ngay bây giờ, tôi xin có lời trả lại cái tri huyện cho Nhà nước! Ngày mai thì sẽ có đơn từ chức của tôi hẳn hoi” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.51). Từ chức ở đây không phải vì thấy mình không hoàn thành nhiệm vụ được giao, mà là ý thức được sự khốn nạn của chốn quan trường với đầy rẫy tệ nạn hối lộ tham nhũng thối tha đã biến thần công lý thành một trò hề cho những người có thiên lương dè bỉu. ĐẶNG VĂN VŨ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 55 Sự tiết tháo cộng với nền tảng tri thức vững vàng đã giúp cho Tri huyện có một quyết định dứt khoát, nhờ vậy mà ông ta sẵn sàng đáp trả lại thái độ hống hách và lời đe dọa của quan Tổng đốc: “Bẩm cụ lớn, chẳng phải nói khoe gì, quan thầy của tôi trong đảng xã hội, nay mai mà có sang nhận chức toàn quyền, thì lúc ấy tôi lại sẽ làm quan cũng không muộn ạ. Mà nếu có phải làm quan, tôi sẽ cũng không làm quan huyện nữa... tôi xin cam đoan với cụ lớn trước như thế” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.52). Ở đây không phải là sự dựa dẫm quyền thế để kiêu ngạo, mà là cho đối thủ biết rằng mình có điểm tựa để vươn lên chứ không phải quỵ lụy để tồn tại. Và trước sự kết tội “ương ngạnh” của Tổng đốc, tri huyện thẳng thắn: “Bẩm, nào có phải ương ngạnh! Chúng tôi hiểu rồi, vì đã làm tri huyện một năm rồi Thôi được, cụ lớn đã bảo là sai thì nó là sai. Tôi cũng không cần cãi bừa, vì tôi đã xin từ chức rồi. Để tôi mở một phòng luật sư và một cơ quan ngôn luận bằng chữ tây, lúc ấy rồi tôi xin đáp lại cụ lớn và cái chế độ quan trường hiện nay. Thưa cụ lớn, khi người ta không phải là kẻ vô học thì người ta muốn làm gì cũng được” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.52). Uy vũ bất năng khuất, ta thường thấy thái độ khúm núm của quan bề dưới đối với quan bề trên xã hội phong kiến, nhưng đối với Tri huyện thì không bao giờ khuất phục trước quan trên. Có thể nhân vật Tri huyện có tính chất lý tưởng của Vũ Trọng Phụng mơ ước một chế độ quan trường tốt đẹp để tạo dựng một xã hội tốt đẹp theo ý nguyện của ông. Nhưng thời nào cũng vậy, chế độ xã hội nào cũng vậy, luôn có người tốt và người xấu, luôn có quan chức tốt bên cạnh nhiều quan chức xấu. Điều đó cho thấy cái nhìn của Vũ Trọng Phụng không thiên kiến, luôn tôn trọng sự thật. 2.1.2. Nhân vật quan Công sứ người Pháp Do thực dân Pháp xâm lăng nước ta, đặt ách thống trị lên dân tộc ta, vơ vét tài nguyên nước ta nên trong suy nghĩ của rất nhiều người Việt lúc này, người Pháp là những kẻ xấu xa, độc ác. Văn học hiện thực phê phán, rất ít xây dựng nhân vật là người Pháp. Vũ Trọng Phụng có khác, ông không những xây dựng những hình ảnh quan Pháp xấu xa như các vị trong tiểu thuyết Số đỏ, mà còn giúp người đọc nhận diện những vị quan rất tốt đẹp. Sự thiện cảm của tác giả dành cho viên Công sứ người Pháp thể hiện ngay trong cách miêu tả nhân vật này: “Đêm nay, ngồi làm việc, hai chân quan đi giầy da đen, cổ quan quấn một cái khăn quan dày sụ, lông chiên tua tủa bịt đến cả cằm. Bộ râu bạc ba chòm và cái trán hói đến bóng lộn của quan, khiến ngài có vẻ đường bệ oai nghiêm lắm” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.30). Sự uy nghiêm, đường bệ là dáng vẻ cần có của một quan chức cấp cao. Bởi vì đó là dấu hiệu bên ngoài của một tính cách cương nghị, bản lĩnh bên trong. Thái độ ung dung, tự tại là chỉ dấu của phẩm chất kiên trinh và nội lực tri thức. Từ dáng ngồi, đôi giày, bộ râu bạc ba chòm đến cái trán hói bóng lộn toát lên phong thái của một nhà lãnh đạo. Hình thức bên ngoài ấy khá thống nhất với tính cách phẩm chất bên trong. Vũ Trọng Phụng trước khi đi vào khắc họa phẩm cách viên Công sứ, bằng ngôn ngữ người kể chuyện, ông đã giúp người đọc có cái nhìn khái quát về con người này: “Quan là một người đã cao tuổi, ở thuộc địa đã trên ba mươi năm, đã được lòng dân không phải vì một chính sách giả dối, không phải vì những bài diễn văn kêu vang và rỗng tuếch, không phải vì đã đem SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 70 (04/2020) 56 những giọt nước mắt cá sấu ra huyễn hoặc, lừa dối dân ngu, nhưng chính bởi quan là một bậc hiền nhân quân tử rất ít có ở đời” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.29). Thông tin này cho thấy quan là người gắn bó lâu năm ở xứ An Nam. Sự gắn bó ấy giúp quan hiểu sâu sắc về người Việt, nước Việt, đó là điều kiện quan trọng để ông vạch ra đường lối cai trị của mình. Có điều, sự “cai trị” của ông không vì mục đích vun vén cá nhân hay cho nước Pháp, mà là chủ yếu cho sự bình an của dân chúng. Đó là yếu tố quan trọng để ông “được lòng dân”. “Được lòng dân”, ba chữ ấy đơn giản nhưng đó là một vấn đề vô cùng khó khăn. Ngay cả quan chức người Việt, để được lòng dân đã khó vì chế độ quan trường thiếu minh bạch, vì quan niệm “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Công sứ là người Pháp đến cai trị một dân tộc thuộc địa, nhưng ông không theo thói thường của một quan chức mẫu quốc “đem văn minh khai hóa dân tộc man di”, mà ông làm quan bằng cái tâm của một người trí thức “ham đọc sách, viết văn”. Chính con người nhân văn ấy đã khiến ông không thể sống giả dối, dù là với những người thuộc dân tộc khác. Thật may mắn cho nhân dân trong tỉnh khi có một vị quan tốt như thế, nhân từ như thế: “Cái lòng nhân từ của quân thì hầu như thành một câu cách ngôn đã truyền tụng. Những người trí thức, cả những nhà viết báo rất hoài nghi, cũng phải nhận ngài là người hiếm có, sống ở thuộc địa đã nửa đời người, mà vẫn giữ được những quan niệm về sự tự do cá nhân rất rộng rãi, vẫn biểu lộ được cái tinh thần đáng trọng của hạng trí thức nước Pháp, chứ không nhiễm phải tính nết của phái thực dân bằng dùi cui” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.29). Tác giả Vũ Trọng Phụng, thông qua nhân vật người kể chuyện, tiếp tục ca ngợi quan Công sứ ở phương diện nhân từ, đặc biệt là “sự tự do cá nhân” mà ông đã thấm nhuần từ ý thức cá nhân hình thành rất sớm ở nền văn minh phương Tây. Tôn trọng sự tự do cá nhân nên dù là quan lớn nhưng ông vẫn có lối hành xử hết sức thân thiện, gần gũi chứ không hề kiêu căng hống hách. Vũ Trọng Phụng kể lại một chi tiết nhỏ nhưng lại làm nổi bật thái độ thân ái, hiền hòa của viên Công sứ: “Một buổi kia, có việc ra nhà giây thép, quan cứ cuốc bộ mà lử khử đi như những người tây thường. Qua một phố nọ, có một trường tư thục, một lũ trẻ em đùa nghịch đá bóng, làm cho quả bóng trúng đánh bốp một cái vào ngực quan... Nhưng mà quan công sứ cứ khoan thai cầm khăn mặt bông phủi áo, rửa tay vào chậu nước rồi ôn tồn bảo viên đốc: “Ông phải bảo học trò của ông, ra cái bãi cỏ ở cạnh chợ mà đá bóng, chứ thể thao ở giữa phố như thế thì rồi có những tai nạn xe cộ xảy ra” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.29). Một chi tiết nhỏ, nhưng thể hiện “cái lớn” trong cách ứng xử xuất phát từ sự khiêm tốn cũng như lòng nhân ái, bao dung của ông. Làm quan cái khó nhất là giữ cho được cán cân công lý, không để “nén bạc đâm toạc tờ giấy”. Quan Công sứ không những có những hành động, cử chỉ hết sức thân thiện với trẻ em, ông còn là người luôn bênh vực những kẻ nghèo hèn trong xã hội. Đây là cách ông đối xử với người đàn bà mò cua bắt ốc: “Một lần khác, xe hơi của quan vừa ở thủ đô về, người tài xế đương lái vòng để vào sân tòa sứ, thì có một mụ nhà quê tay cầm một lá đơn đến quỳ ngay trước xe. Mấy anh lính khố xanh toan giơ cao cái roi mây thì quan công sứ ra hiệu ngăn lại hỏi...“Đơn kêu của bà có rõ ràng không?” người đàn bà kêu lải nhải một hồi thì quan truyền: “Thôi, cứ về rồi quan sẽ ĐẶNG VĂN VŨ TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 57 xét xử” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.30). Chỉ riêng việc ngăn lính khố xanh đánh người đàn bà quê mùa dám ngăn xe của quan đã cho thấy quan là một người tự thấy mình không phải là kẻ bề trên để có được tinh thần bình đẳng giữa con người với nhau. Người Việt có câu “cá lớn nuốt cá bé”, thường những người thấp cổ bé họng luôn bị những kẻ tai to mặt lớn ức hiếp. Vị công sứ người Pháp không như vậy, ông sẵn sàng đứng ra bênh vực cho người đàn bà mò cua bắt ốc khỏi sự ức hiếp của bọn bô lão trong làng: “Nguyên do đó là một mụ đi mò cua bắt ốc, bị làng bắt vạ vì chưa hết tang chồng mà đã có mang. Theo như trong đơn, thì mụ đã bị một bọn bô lão trong làng, lôi những hủ tục ra để hành hạ mụ, chứ thật ra, mụ đã hết tang từ vài tháng trước khi có mang” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.30). Xem xét kỹ lưỡng để đưa ra những quyết định đúng nhằm tránh oan sai là thiên chức của người nắm cán cân công lý. Nhờ vậy mà quan công sứ đã cứu được người dân bé mọn: “Ấy thế là quan viết thư trả lời cái mụ mò cua ấy rằng: “Thưa bà, bản chức đã xét đơn của bà rồi. Nếu bà còn có tang ông ấy thì theo luật Gia Long, có chửa như vậy là có lỗi. Còn nếu bà đã đoạn tang rồi thì không ai được phép bắt vạ bà, nếu bà viện được đủ chứng cớ là đã hết tang thì cứ lên tòa mà trình bày, bản chức sẽ trị tội những kẻ nhũng lạm” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.30). Cấp trên nghiêm minh sẽ trị được cấp dưới nhũng loạn. Viên quan đầu tỉnh rất liêm chính, công minh nên tổng đốc, bố chánh, tri phủ “nhăn mặt”, còn bọn bô lão thì “sợ đến hết vía”: “Một bức thư của một vị quan đầu tỉnh mà lại có cái luận điệu lễ phép với một mụ mò cua đến bực ấy, đã làm cho các quan tổng đốc, bố chánh, tri phủ phải nhăn mặt lại. Rồi bọn bô lão trong làng sợ hãi đến hết vía mà đền lại cái vạ. Hai chuyện này đủ là chứng cớ rằng quan công sứ tỉnh có nghị Hách hồi ấy, là người dễ dàng biết bao nhiêu” (Vũ Trọng Phụng, 2016, tr.30). So sánh với giọng điệu quát tháo thường thấy của quan đối với dân ngày xưa, chúng ta càng trân trọng “luận điệu lễ phép” của quan Công sứ. Đích thị đây là một vị quan được đào tạo rất bài bản ở xứ Pháp văn minh, và tất nhiên ông không bị nhiễm “thói thực dân dùi cui”. Nhún nhường, khiêm tốn, bênh vực cho người dân bé mọn, ông cũng cương quyết, nghiêm khắc trị tội bọn quan hà hiếp dân. Xây dựng nhân vật viên công sứ tốt đẹp, Vũ Trọng Phụng đã xác định được vị thế riêng của mình, không hòa lẫn vào các nhà văn Hiện thực phê phán cùng thời. Cái nhìn của ông thật sự thể hiện sự tiến bộ về mặt tư tưởng. 3. Kết luận Nhân vật quan chức tích cực như tri huyện Cúc Lâm, quan Công sứ là những điểm sáng trong bức tranh tối màu của hiện thực xã hội. Họ là những vị quan luôn đứng về lẽ phải, sẵn sàng bảo vệ công lý, bênh vực cho người thấp cổ bé họng khỏi sự ức hiếp của bọn cường quyền. Những vị quan chức này không phải không có trong hiện