Tóm tắt
Phục dựng, tu sửa hiện vật là vấn đề “nóng” của các bảo tàng, sưu tập tư nhân ở Việt Nam. Việc
phục dựng các hiện vật theo đúng phương pháp là rất cần thiết, vừa để tăng độ bền chắc, kéo dài tuổi
thọ của hiện vật, vừa làm hiện vật đẹp hơn. Tuy nhiên, việc phục dựng, tu sửa hiện vật tuân thủ quy
trình khoa học, đảm bảo các yêu cầu mỹ thuật, kỹ thuật thực sự là một bài toán nan giải đòi hỏi sự
đồng bộ trong bộ tam “Triết lý - Kỹ thuật - Nhân lực”, vấn đề hiện đang rất thiếu ở Việt Nam. Bài viết đề
cập đến nhu cầu và thực trạng công tác phục dựng hiện vật, cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ phục dựng hiện vật ở Việt Nam. Từ mô hình thử nghiệm phục dựng hiện vật và đào tạo cán bộ về
lĩnh vực này ở Bảo tàng Nhân học (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội), kết hợp với những kinh nghiệm từ các bảo tàng khác, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp
nhằm tháo gỡ những khó khăn trong công tác phục dựng, tu sửa hiện vật ở Việt Nam.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu, thực trạng và giải pháp phục dựng hiện vật ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 29 (Tháng 9 - 2019) 95
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
NHU CẦU, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHỤC DỰNG HIỆN VẬT Ở VIỆT NAM
BÙI HỮU TIẾN
ĐOÀN VĂN LUÂN
Tóm tắt
Phục dựng, tu sửa hiện vật là vấn đề “nóng” của các bảo tàng, sưu tập tư nhân ở Việt Nam. Việc
phục dựng các hiện vật theo đúng phương pháp là rất cần thiết, vừa để tăng độ bền chắc, kéo dài tuổi
thọ của hiện vật, vừa làm hiện vật đẹp hơn. Tuy nhiên, việc phục dựng, tu sửa hiện vật tuân thủ quy
trình khoa học, đảm bảo các yêu cầu mỹ thuật, kỹ thuật thực sự là một bài toán nan giải đòi hỏi sự
đồng bộ trong bộ tam “Triết lý - Kỹ thuật - Nhân lực”, vấn đề hiện đang rất thiếu ở Việt Nam. Bài viết đề
cập đến nhu cầu và thực trạng công tác phục dựng hiện vật, cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ phục dựng hiện vật ở Việt Nam. Từ mô hình thử nghiệm phục dựng hiện vật và đào tạo cán bộ về
lĩnh vực này ở Bảo tàng Nhân học (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội), kết hợp với những kinh nghiệm từ các bảo tàng khác, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp
nhằm tháo gỡ những khó khăn trong công tác phục dựng, tu sửa hiện vật ở Việt Nam.
Từ khóa: Phục dựng, tu sửa, hiện vật bảo tàng, nhu cầu, thực trạng, giải pháp
Abstract
Restoration and remodeling of objects is a “hot” issue of private museums and collections in Vietnam.
The restoration of artifacts in the right way is essential, both to increase durability, to extend the life
of artifacts, and to make the artifacts more beautiful. However, the restoration and remodeling of
artifacts complying with scientific procedures, ensuring the visiual and technical requirements is really
a difficult matter that requires a unity in the “Philosophy - Technique- Human resources” trinity, which
is inadequate in Vietnam. The paper deals with the needs and the real situation of artifact restoration
work, as well as the training and retraining of artifact workers in Vietnam. From the experimental model
of restoring artifacts and training cadres in this field at the Museum of Anthropology (Hanoi University
of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University), combined with experiences from
other museums, the research team proposes a number of solutions to remove difficulties in the work of
restoring and remodeling artifacts in Vietnam.
Keywords: Restoration, remodeling, museum artifacts, need, actual situation, solutions
1. Phục dựng hiện vật ở Việt Nam: Nhu cầu
bức thiết về bảo tồn di sản
Hiện vật trong các bảo tàng bao gồm hiện vật làm từ chất liệu vô cơ như đồ kim loại, đồ đá, thủy tinh hoặc
hợp chất hữu cơ như đồ giấy, đồ tre gỗ, đồ
xương Nhiều hiện vật đang lưu giữ tại các
bảo tàng, do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan, ở trong tình trạng không nguyên
vẹn và có nguy cơ cao bị hỏng, bị phá hủy.
Một số nguyên nhân khách quan:
1) Hiện vật trước khi sưu tầm, đưa về bảo
tàng tồn tại trong các điều kiện, môi trường tự
nhiên, không bảo quản (trong lòng đất, trong
hang động, dưới lòng sông), bị tác động của
nhiều nhân tố như nhiệt độ, độ ẩm, sức nén,
côn trùng, khiến hiện vật bị hư hại.
2) Con người làm vỡ trong quá trình sử
dụng, cố tình đập vỡ hay còn gọi là “giết chết
Số 29 (Tháng 9 - 2019)96
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
hiện vật”. Hiện tượng “giết chết hiện vật” thường
gặp trong các nghi lễ, đặc biệt trong táng thức.
Các nhà khảo cổ học Việt Nam khi khai quật các
khu mộ táng như mộ táng trong văn hóa Sa
Huỳnh, mộ táng trong văn hóa Đông Sơn đã
thấy nhiều đồ gốm, đồ đồng, đồ đá bị đập vỡ
trước khi chôn theo người chết. Hiện nay, nhiều
tộc người ở Việt Nam (điển hình là các tộc người
ở Tây Nguyên) và trên thế giới khi “chia của” cho
người chết cũng thường đập vỡ hiện vật.
3) Hiện vật trong các bảo tàng gặp phải các
sự cố/“tai nạn” không may do khách quan như
thiên tai (động đất, bão lũ), khủng bố.
4) Do quá trình lão hoá tự nhiên của các
hiện vật.
Một số nguyên nhân chủ quan:
1) Chế độ bảo quản hiện vật trong các bảo
tàng không đảm bảo dẫn tới tình trạng hiện
vật bị hư hại. Chẳng hạn như, giá kệ bị hỏng
chưa kịp thay thế dẫn đến bị đổ làm vỡ hiện
vật; hiện vật hữu cơ bị nấm mốc, động vật, côn
trùng cắn, phá làm hỏng hiện vật.
2) Bị gãy, vỡ trong quá trình vận chuyển
hiện vật để kiểm kê, trưng bày, bảo quản
Hiện tượng này ít xảy ra và thường được hiểu
như những “tai nạn nghề nghiệp”.
Tình trạng hiện vật ở bảo tàng:
Số lượng hiện vật bị hư hại, có giá trị trưng
bày, cần phục dựng, tu sửa ở bảo tàng khá lớn,
chẳng hạn như sưu tập đồ gốm (còn phom
dáng, đủ điều kiện để phục dựng một hiện vật
hoàn chỉnh) ở Bảo tàng Nhân học có khoảng
80% trong tổng số cần phục dựng, hay như ở
tại Bảo tàng Sa Huỳnh ở Hội An cũng có khoảng
70% đồ gốm bị vỡ (còn dáng), cần phục dựng.
Số lượng hiện vật lưu trữ trong nhân dân, trong
các sưu tập tư nhân cần phục dựng còn lớn hơn
rất nhiều. Điều này đang đặt ra yêu cầu cấp
thiết cho việc đầu tư cơ sở vật chất và nhân lực
cho công tác phục dựng, tu sửa hiện vật.
2. Thực trạng phục dựng hiện vật ở Việt Nam
2.1. Công tác phục dựng hiện vật
Số lượng hiện vật bị hư hại ở các bảo tàng,
sưu tập tư nhân được phục dựng, tu sửa còn
nhiều hạn chế do thiếu nguồn kinh phí, hoặc
do thiếu chuyên gia. Một số bảo tàng được
quan tâm, đầu tư nguồn kinh phí nên đã “hồi
sinh” được nhiều hiện vật có giá trị. Tại Bảo tàng
Lịch sử Quốc gia Việt Nam, nhiều sưu tập hiện
vật (gốm, sắt, đồng), sau khi được khai quật từ
các di tích khảo cổ học thuộc giai đoạn Tiền,
Sơ sử, đã được các cán bộ của bảo tàng phục
dựng thành công, điển hình như: Bưng Thơm
(Bà Rịa, Vũng Tàu) năm 1997, Gò Ô Chùa (Long
An) năm 1997, Bình Châu II (Quảng Ngãi) năm
2002, Rạch Nũi (Long An) năm 2002, Xóm Rền
(Phú Thọ) năm 2004, Động Cườm (Bình Định)
năm 2003, Cồn Dài (Thừa Thiên Huế) năm 2006,
Phú Trường (Bình Thuận) năm 2008, Bãi Cọi (Hà
Tĩnh) năm 2008 - 2010, Hòa Diêm (Khánh Hòa)
năm 2010 [8]. Ngoài ra, đồ đồng thuộc các
giai đoạn văn hóa Đông Sơn, đồ gốm men, đồ
sành, đồ gỗ thuộc các giai đoạn lịch sử cũng
được các chuyên gia, nghệ nhân trong và
ngoài nước nghiên cứu phục dựng, trong đó
phải kể đến việc hồi sinh hết sức ngoạn mục
cây đèn voi lớn nhất, độc đáo nhất của văn
hóa Đông Sơn; hay 4 chiếc mũ hoàng cung
thuộc vương triều Nguyễn bị hư hại nặng đến
biến dạng (không thể nhận rõ hình hài với
hàng ngàn chi tiết không rõ chức năng, vị trí)
của đội ngũ các nhà nghiên cứu, nghệ nhân,
thợ kim hoàn Việt Nam [4]; hay như việc bảo
quản, phục hồi 4 cánh cửa gỗ độc bản, được
chế tác tinh xảo, vô cùng giá trị, có nguồn gốc
sưu tầm từ chùa Phổ Minh (Nam Định) của các
chuyên gia đến từ Nhật Bản với sự tài trợ của
quỹ Sumitumo. Đây là những hiện vật gắn liền
với thời đại hoàng kim của nhà Trần và lịch sử
Phật giáo Việt Nam. Cần phải nhấn mạnh rằng,
tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, việc sưu tầm
hiện vật thông qua khai quật các di tích khảo
cổ, hay từ trao đổi mậu dịch (mua từ các sưu
tập tư nhân), hoặc tiếp nhận từ hải quan,
thường gắn liền song hành với công tác phục
dựng, bảo quản. Tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam, một số sưu tập tranh quý bị hư hại cũng
đã được các chuyên gia trong nước và quốc tế
phục hồi. Tại Bảo tàng Nhân học (Hà Nội), Bảo
tàng Sa Huỳnh (Hội An), Bảo tàng Hùng Vương
(Phú Thọ), Bảo tàng Quảng Nam,... các hiện vật
gốm thuộc giai đoạn Tiền, Sơ sử bị vỡ cũng đã
Số 29 (Tháng 9 - 2019) 97
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
từng bước được phục dựng. Tuy nhiên, các bảo
tàng này còn rất nhiều hiện vật bị hư hại, chưa
được phục dựng, tu sửa.
Hiện nay, nước ta đang thiếu hụt trầm trọng
đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp trong lĩnh vực
phục dựng, tu sửa hiện vật. Rất ít bảo tàng có
cán bộ phục dựng, tu sửa hiện vật, số cán bộ
được đào tạo phương pháp bài bản (cán bộ
được đào tạo ở nước ngoài, được các chuyên
gia, nghệ nhân truyền dạy) lại càng ít. Chẳng
hạn như ở Bảo tàng Mỹ thuật có đội ngũ cán
bộ tu sửa đồ giấy khá tốt. Những cán bộ này
được các chuyên gia đào tạo, các nghệ nhân
có nhiều kinh nghiệm truyền dạy. Bảo tàng
Lịch sử Quốc gia Việt Nam, Bảo tàng Nhân học,
Viện Khảo cổ học cũng mới chỉ có một số ít cán
bộ làm kiêm nhiệm công tác phục dựng, tu
sửa hiện vật. Những cán bộ này đa số là những
cán bộ nghiên cứu khảo cổ, do nhu cầu công
tác chỉnh lý hiện vật sau khai quật và yêu cầu
trưng bày của bảo tàng, đã tìm tòi, thử nghiệm
các phương pháp tu sửa các loại đồ gốm. Hiện
nay, một số ít cán bộ đã có thể phục dựng, tu
sửa khá tốt các hiện vật gốm. Tuy nhiên, đây
không phải là những người được đào tạo bài
bản, trường quy, khoa học.
Việt Nam có rất ít các trung tâm chuyên
phục dựng hiện vật. Tới nay, mới chỉ có 1 trung
tâm bảo quản, tu sửa mỹ thuật của Bảo tàng
Mỹ thuật Việt Nam (trung tâm thành lập năm
2006, chuyên bảo quản, tu sửa, phục chế các
tác phẩm mỹ thuật). Việc phục dựng, tu sửa
hiện vật hiện nay đa số do nghệ nhân (các làng
nghề) hoặc do các họa sĩ, nhà khảo cổ (kiêm
nhiệm) - những “thợ bán chuyên nghiệp” đảm
nhận và thực hiện bằng các phương pháp thủ
công và theo kinh nghiệm. Do nhu cầu phục
dựng, tu sửa hiện vật ngày càng lớn, ở các tỉnh,
thành phố lớn như Hà Nội, Thanh Hoá, Nam
Định,... một số người đã mở cửa hàng, xưởng
nhằm tình kiếm cơ hội “kinh doanh” trong lĩnh
vực này. Phổ biến là phục dựng, tu sửa đồ gốm,
đồ đồng, đồ gỗ. Điều đặc biệt là đội ngũ “thợ”
phục dựng, tu sửa hiện vật (thợ “tự phát”) ở
các cơ sở kinh doanh này trình độ tay nghề rất
khác nhau, trong đó có nhiều người trẻ không
có kinh nghiệm. Các phương pháp thực hiện ở
các cửa hàng này chưa được kiểm định, đánh
giá về mặt khoa học. Điều này có thể dẫn đến
những rủi ro đáng tiếc cho hiện vật.
Nhìn chung, việc phục dựng, tu sửa hiện vật
cũng chưa được thực hiện bài bản theo một quy
trình khoa học. Hiện nay, nhiều bảo tàng Việt
Nam chưa có phiếu khoa học về phục dựng, tu
sửa hiện vật. Tham khảo phiếu khoa học hiện vật
phục dựng chuẩn theo mẫu quốc tế ở Đại học
Hoàng gia Phnom Penh (Campuchia), chúng tôi
thấy trong phiếu này trình bày rất chi tiết về lý
lịch hiện vật, phương pháp tu sửa hiện vật, quy
trình thực hiện tu sửa, vật liệu sử dụng, người
tu sửa, thời gian... Những phiếu khoa học này
sẽ giúp ích rất nhiều cho người làm công tác
phục dựng, tu sửa hiện vật để họ có thể theo
dõi, nghiên cứu, đánh giá, cải tiến các phương
pháp phục dựng, tu sửa hiện vật, đặc biệt khi
thử nghiệm áp dụng các phương pháp khoa
học mới. Đối với hiện vật bảo tàng, phiếu khoa
học phục dựng, tu sửa hiện vật sẽ giúp bổ
sung để hoàn thiện hồ sơ về hiện vật.
Việc phục dựng, tu sửa hiện vật trong nhiều
trường hợp chưa đảm bảo nguyên tắc. Điều
này diễn ra phổ biến ở các xưởng, cửa hàng
kinh doanh trong lĩnh vực phục dựng, tu sửa
hiện vật. Do mục đích lợi nhuận, nhiều hiện
vật được phục dựng, tu sửa theo kiểu chắp
nối “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Kiểu phục
dựng này thường gặp ở đồ đồng, đồ gốm...
Một hiện tượng khác cũng rất điển hình cho
việc tu sửa không tuân thủ nguyên tắc là chất
liệu dùng phục dựng thường được bôi tràn lên
bề mặt ngoài của hiện vật. Quan sát nhiều đồ
gốm men, đồ đồng được phục dựng ở các cửa
hàng, xưởng kinh doanh, chúng tôi thấy hiện
tượng này khá phổ biến.
Việc phục dựng, tu sửa hiện vật ở Việt Nam
hiện nay bộc lộ rõ nhiều hạn chế về cả số lượng,
trình độ, nhận thức của đội ngũ tu sửa hiện vật.
Trong nhiều trường hợp, việc tu sửa chưa đảm
bảo nguyên tắc, chưa tuân theo quy trình khoa
học cần thiết, chưa có sự kết hợp giữa tu sửa
hiện vật và nghiên cứu tu sửa hiện vật. Vật liệu
(hoá chất, keo...) và công cụ chuyên dụng cho
Số 29 (Tháng 9 - 2019)98
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
việc tu sửa hiện vật còn thiếu. Những hạn chế về
công tác phục dựng, tu sửa hiện vật có nguyên
nhân trực tiếp do công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ ở các bảo tàng, các trường đại học hiện
nay chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.
2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
phục dựng hiện vật
Các trường đại học như Đại học Văn hoá Hà
Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Huế,... chưa có chương trình đào tạo phục
dựng, tu sửa hiện vật. Ở một số bảo tàng, việc
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phục dựng, tu sửa
hiện vật đa số dưới hình thức mời các chuyên
gia nước ngoài hay mời các nghệ nhân truyền
dạy phương pháp, kinh nghiệm. Cho tới nay,
mới chỉ có một số ít bảo tàng thực hiện được
việc mời nghệ nhân truyền dạy. Một trong số ít
các bảo tàng đã thực hiện thành công mô hình
này là Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng
Lịch sử Quốc gia.
Do nhu cầu cấp thiết trong việc tu sửa hiện
vật, một số cán bộ nghiên cứu ở các bảo tàng,
viện nghiên cứu như Bảo tàng Lịch sử Quốc
gia, Bảo tàng Nhân học, Viện Khảo cổ học đã tự
mày mò, học hỏi, nghiên cứu các phương pháp
để phục dựng đồ gốm. Một số kinh nghiệm,
quy trình, phương pháp về phục dựng đồ gốm,
đồ sắt bước đầu đã được đúc rút, tổng kết và
công bố [1;7;8]. Ở các cơ quan này, việc đào tạo
cán bộ về phục dựng, tu sửa hiện vật vẫn chủ
yếu qua phương pháp truyền dạy. Trong quá
trình Bảo tàng Nhân học thực hiện dự án phục
dựng sưu tập đồ gốm thuộc giai đoạn Tiền, Sơ
sử đã tổ chức thành công khóa học phương
pháp phục dựng, tu sửa hiện vật gốm cho các
cán bộ của bảo tàng, sinh viên Bộ môn Khảo
cổ học của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn và sinh viên Khoa Di
sản văn hóa, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
(Ảnh 1). Cán bộ của Bảo tàng Nhân học, trong
dự án phục dựng sưu tập đồ gốm Sa Huỳnh,
cũng đã chia sẻ kinh nghiệm và truyền dạy cho
2 cán bộ của Bảo tàng Văn hóa Sa Huỳnh ở Hội
An (Ảnh 2). Đã có 75 hiện vật thuộc văn hóa Sa
Huỳnh, có niên đại khoảng 2.500 năm - 2.000
năm cách ngày nay, đa số là đồ tùy táng, thuộc
nhiều loại hình khác nhau như chum, nồi, bình,
vò, bát, đèn, đã được vệ sinh, gắn chắp, gia
cố chỗ rạn nứt, phục dựng phom dáng, phục
chế những phần thiếu khuyết bằng keo epoxy
2 thành phần kết hợp với một số vật liệu thích
hợp (bột đá, bột màu,), tạo hình hoa văn
trang trí đảm bảo tính nguyên gốc, khoa học
và thẩm mỹ. Dưới sự hướng dẫn, truyền dạy
của chuyên gia từ Bảo tàng Nhân học, các cán
bộ của Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh đã nắm bắt
được phương pháp, quy trình phục dựng, và
thực hành thuần thục các kỹ thuật phục dựng.
Khó khăn hiện nay là các tài liệu về phục dựng,
tu sửa hiện vật ở Việt Nam còn rất thiếu. Một số
cuốn sách của các nhà nghiên cứu nước ngoài
được dịch sang tiếng việt như Cơ sở Bảo tàng
của Timothy Ambrose, Crispin Paine (2000),
Cẩm nang Bảo Tàng của Gary Edson - David
Dean (2001), Sổ tay kỹ thuật bảo quản phòng
ngừa cho trưng bày bảo tàng của Toby Raphael
Ảnh 2. Truyền dạy phục dựng hiện vật tại Bảo tàng
Sa Huỳnh ở Hội An (Nguồn: Bảo tàng Văn hóa Sa
Huỳnh)
Ảnh 1. Truyền dạy phục dựng hiện vật tại Bảo tàng
Nhân học (Nguồn: Bảo tàng nhân học)
Số 29 (Tháng 9 - 2019) 99
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
và Nancy Davis (2004), Cơ sở bảo tàng học
Trung Quốc (2008),... không đề cập, hoặc đề
cập rất ít về công tác phục dựng, tu sửa hiện
vật. Việc thiếu sách tham khảo gây nhiều khó
khăn cho cán bộ đối với việc nâng cao trình
độ, cập nhật và áp dụng các phương pháp mới
trong công tác tu sửa hiện vật.
Bên cạnh đó, chưa có sự liên kết giữa bảo
tàng và các trường đại học trong công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ phục dựng, tu sửa hiện
vật. Hiện nay, một số bảo tàng có các chuyên
gia về lĩnh vực này, mặt khác ở các bảo tàng
có điều kiện để thực hành (hiện vật, hoá chất,
phòng làm việc...). Trong điều kiện các trường
đại học thiếu cán bộ, đây sẽ là lực lượng có thể
bổ sung, hỗ trợ các trường đại học trong công
tác đào tạo, giảng dạy về lĩnh vực phục dựng,
tu sửa hiện vật.
3. Những đề xuất về công tác phục dựng
hiện vật
- Phục dựng hiện vật nếu xét dưới khía
cạnh khoa học thì là một lĩnh vực nghiên cứu
(nhà nghiên cứu, nhà khoa học phục dựng),
nhưng dưới khía cạnh nghề nghiệp thì cũng
có thể coi là một nghề (kỹ sư/thợ phục dựng).
Nhà khoa học phục dựng vừa là kỹ sư, vừa là
nhà nghiên cứu, nhưng một kỹ sư phục dựng
có thể chỉ là một thợ nắm được các tri thức về
nghề và thành thạo các kỹ thuật, kỹ năng mà
nghề yêu cầu. Khoa học phục dựng có nhiều
bộ môn, lĩnh vực chuyên sâu, chẳng hạn như
phục dựng đồ gốm, phục dựng đồ kim loại,
phục dựng tranh Triết lý bao trùm của lĩnh
vực khoa học này là từ nghiên cứu tới phục dựng.
Khoa học phục dựng giống như các lĩnh vực
khoa học khác, cần lấy nghiên cứu làm nền
tảng, cơ sở cho sự phát triển bền vững của
ngành. Đây là lĩnh vực nghiên cứu liên ngành,
cần phát huy tri thức của nhiều ngành khoa
học (hóa học, khoa học vật liệu, vật lý, bảo
quản, khảo cổ, lịch sử, mỹ thuật) để tìm tòi,
tổng kết, đưa ra các cách tiếp cận, các phương
pháp phục dựng tốt nhất, khách quan nhất,
phù hợp nhất với điều kiện, hoàn cảnh môi
trường về tự nhiên và xã hội của hiện vật.
- Đào tạo cán bộ cần được xác định là
nhiệm vụ quan trọng. Các trường đại học, viện
nghiên cứu cần có kế hoạch xây dựng chương
trình và thực hiện đào tạo về phục dựng, tu
sửa hiện vật (đào tạo bậc đại học và sau đại
học). Chỉ như vậy, chúng ta mới có đội ngũ cán
bộ phục dựng, tu sửa hiện vật chuyên nghiệp,
có phương pháp khoa học. Cần nhấn mạnh
rằng, đào tạo cán bộ phục dựng vừa cần chú
trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu (ít, tinh,
có khả năng tư duy sáng tạo), vừa cần đào tạo
đội ngũ kỹ sư, thợ lành nghề (nhiều, nắm được tri
thức và thành thạo kỹ năng của nghề).
- Thành lập và phát triển các viện, trung
tâm phục dựng, tu sửa, bảo quản hiện vật. Đó
chính là các “bệnh viện” để “cứu chữa” hiện vật.
Nhu cầu từ các bảo tàng và xã hội là rất lớn và
cấp thiết, nên rất cần mở rộng, phát triển các
“bệnh viện cổ vật” công và tư, cùng với đó là
đào tạo đội ngũ chuyên gia nghiên cứu và kỹ
sư giỏi về trình độ chuyên môn, có tâm, đức với
nghề. Đối với “nghề phục dựng”, cũng rất cần
xây dựng các nguyên tắc, tiêu chí, quy định về
trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
- Liên kết chặt chẽ giữa bảo tàng, trung tâm
phục dựng và các trường đại học, viện nghiên
cứu trong đào tạo cán bộ phục dựng, tu sửa
hiện vật. Đội ngũ cán bộ bảo tàng làm việc lâu
năm, có nhiều kinh nghiệm có thể tham gia
giảng dạy, hỗ trợ xây dựng các chương trình
đào tạo cho các trường đại học. Mặt khác, các
bảo tàng, trung tâm phục dựng cũng sẽ là cơ
sở tốt cho việc thực hành, thực tập của học
viên, sinh viên.
- Để đáp ứng nhu cầu cấp thiết trước mắt,
các bảo tàng có thể tổ chức các lớp tập huấn
ngắn hạn về công tác phục dựng, tu sửa hiện
vật cho cán bộ bảo tàng; mời các chuyên gia
nước ngoài, hoặc đội ngũ cán bộ được đào tạo
ở nước ngoài tham gia giảng dạy các phương
pháp phục dựng, tu sửa hiện vật; ngoài ra, có
thể lựa chọn mời một số nghệ nhân nhiều
kinh nghiệm để truyền dạy các phương pháp
dân gian.
Số 29 (Tháng 9 - 2019)100
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
- Tổ chức hội thảo chuyên đề về các phương
pháp phục dựng, tu sửa hiện vật, mời các nghệ
nhân, các nhà khoa học tham gia. Từ đó rút ra
các kinh nghiệm, phư