Tóm tắt. “Những người đàn bà tắm” là một trong những cuốn tiểu thuyết gây được tiếng
vang trong đời sống văn học đương đại Trung Quốc, được các nhà phê bình, nghiên cứu
đánh giá cao, đặc biệt ở khả năng tổ chức trần thuật. Bài viết này đi sâu vào những cách
tân nghệ thuật trong tổ chức trần thuật của tác phẩm (người trần thuật, điểm nhìn, giọng
điệu trần thuật, nhịp điệu và ngôn ngữ trần thuật) nhằm làm sáng tỏ một trong những thành
công nhất của tác phẩm là đã “tạc” được chân dung tinh thần con người Trung Quốc thời
hậu cách mạng văn hoá.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 380 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những cách tân trong tổ chức trần thuật tiểu thuyết Những người đàn bà tắm của Thiết Ngưng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 10, pp. 90-97
This paper is available online at
NHỮNG CÁCH TÂN TRONG TỔ CHỨC TRẦN THUẬT TIỂU THUYẾT
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ TẮM CỦA THIẾT NGƯNG
Trần Văn Trọng và Nguyễn Thị Hiền
Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Hải Phòng
Tóm tắt. “Những người đàn bà tắm” là một trong những cuốn tiểu thuyết gây được tiếng
vang trong đời sống văn học đương đại Trung Quốc, được các nhà phê bình, nghiên cứu
đánh giá cao, đặc biệt ở khả năng tổ chức trần thuật. Bài viết này đi sâu vào những cách
tân nghệ thuật trong tổ chức trần thuật của tác phẩm (người trần thuật, điểm nhìn, giọng
điệu trần thuật, nhịp điệu và ngôn ngữ trần thuật) nhằm làm sáng tỏ một trong những thành
công nhất của tác phẩm là đã “tạc” được chân dung tinh thần con người Trung Quốc thời
hậu cách mạng văn hoá.
Từ khóa: Cách tân, trần thuật, Những người đàn bà tắm, giọng điệu, điểm nhìn.
1. Mở đầu
Những người đàn bà tắm của nhà văn nữ Thiết Ngưng là “cuốn tiểu thuyết của những cuộc
đối thoại văn hoá” - một cuộc đối thoại giữa cổ điển và hiện đại, nơi những xung đột giữa lí trí và
tình cảm, bản năng được tác giả đẩy lên bình diện văn hoá và chân dung tinh thần con người Trung
Quốc hậu cách mạng văn hoá được miêu tả một cách “chân thực” đến từng chi tiết, cụ thể đến
“nghiệt ngã” (Vương Trí Nhàn); Tiểu thuyết này còn là một sự “cách tân”, “sáng tạo” tránh được
lối mòn của những cuốn tiểu thuyết cùng thời viết về cách mạng văn hoá. Đặc biệt trong “cách kể
chuyện và miêu tả xung đột nội tâm” khiến người đọc phải rùng mình và “cách xây dựng nhân vật
và những khắc khoải của họ” khiến độc giả không thể gấp lại cuốn sách giữa chừng [1]. Từ góc
độ trần thuật học - một phương diện quan trọng trong cấu trúc tự sự của văn bản nghệ thuật, bài
viết tiếp tục đi sâu vào khả năng “kiến tạo” chân dung tinh thần con người hậu cách mạng văn hoá
của tác giả qua tổ chức trẩn thuật với điểm nhìn, giọng điệu, nhịp điệu và ngôn ngữ của hình tượng
người trần thuật hàm ẩn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Người trần thuật hàm ẩn trong Những người đàn bà tắm
Nhân vật chính trong tiểu thuyết Những người đàn bà tắm là Doãn Tiểu Khiêu, một trí thức
đã trải qua tuổi ấu thơ trong Cách mạng văn hóa. Lúc nào những kí ức về tuổi thơ, tình bạn, tình
Ngày nhận bài 2/2/2014. Ngày nhận đăng 12/10/2014.
Liên lạc Trần Văn Trọng, e-mail: trongxa@gmail.com
90
Những cách tân trong tổ chức trần thuật tiểu thuyết Những người đàn bà tắm...
yêu cứ xoáy tròn trong lòng Khiêu không cho cô sống trọn vẹn với phút giây nào của hiện tại. Hiện
tại của người phụ nữ thành đạt sắp kết hôn cứ nhòe đi nhường chỗ cho những ám ảnh quá khứ: cái
chết của bé Thuyên khi mới hai tuổi, mối tình dang dở cùng Phương Kăng và cuộc đời đau khổ
của người bạn gái Đường Phi... Tất cả những kí ức chắp nối rời rạc ấy của Khiêu đến với người
đọc qua lời kể của người trần thuật. Không giống như các nhân vật khác, người trần thuật này vô
hình trước mắt người đọc, “ẩn tàng” sau những lời kể. Anh ta đẩy nhân vật ra trước độc giả. Anh
ta thâm nhập vào nội tâm nhân vật rồi “khui ra” những suy tư sâu kín nhất của họ.
Giống như một bức tranh thủy mặc với một vài nét chấm phá hay như một câu chuyện dân
gian mà sự miêu tả thường được nhường chỗ cho trí tưởng tượng, người trần thuật trong tiểu thuyết
Những người đàn bà tắm miêu tả rất ít về ngoại hình nhân vật. Mỗi nhân vật chỉ xuất hiện trước
mắt người đọc bằng một vài nét diện mạo nhưng lại gây được ấn tượng mạnh mẽ. Vẻ đẹp của
Đường Phi biểu hiện qua đôi môi tuyệt mĩ, một làn môi “vừa đầy đặn nhưng vừa trống trải, vừa
ướt át nhưng vừa khô héo, vừa phì nhiêu nhưng cũng rất hoang vu” [7;228]. Và càng ít miêu tả
ngoại hình bao nhiêu thì người trần thuật càng tập trung phản ánh thế giới nội tâm của nhân vật
bấy nhiêu. Phương Kăng là một nhân vật phức tạp, anh ta vốn là một trí thức phải chịu nhiều cay
đắng trong Cách mạng văn hóa, sau này trở thành một đạo diễn phim giỏi. Người đàn ông từng trải
và tài hoa ấy đã khiến Khiêu yêu đến đến mức mù quáng quên cả bản thân mình. Khiêu yêu nhưng
không hiểu nổi Phương Kăng, không hiểu được những góc khuất trong con người này. Cô không
hiểu khi năm cái vé xe buýt anh ta cũng phải đem về bằng được để “bắt chúng thanh toán”, hay
khi anh ta hí hửng kêu lên “anh sẽ làm tình với tất cả đàn bà con gái ở thế gian này”. Phải chăng
anh ta đã “phải chịu quá nhiều sự đau khổ ở tuổi trung niên” nên “sau khi giải thoát khỏi khổ đau,
điên cuồng đòi hỏi, đòi hỏi toàn thể xã hội, toàn thể loài người, tất cả đàn ông đàn bà và con gái”
phải bù đắp cho những nỗi khổ ấy. Mãi sau này khi bình tĩnh nhìn lại mối tình đã qua Khiêu mới
nhận ra rằng với Phương Kăng Khiêu rút cuộc chỉ là “người yêu của một thời hỗn độn” [7;191].
Thiết Ngưng đã rất khéo léo khi trao cho người trần thuật của mình khả năng vô cùng to
lớn, không những có thể đọc ra những ý nghĩ của nhân vật mà còn có khả năng móc nối các nhân
vật trong tác phẩm với nhau. Thế nên, cho dù kể về nhiều cuộc đời riêng biệt nhưng không con
người nào nằm ngoài quỹ đạo chung cả.
Như vậy, người trần thuật hàm ẩn trở thành nhân vật quan trọng trong tác phẩm, góp phần
“kiến lập nên mối quan hệ mới giữa tác giả - người tự sự - nhân vật - độc giả” [9;32], tức là người
trần thuật ở vị trí trung gian giữa chủ thể sáng tạo và tác phẩm, “vừa là đại diện cho tác giả vừa
thuộc thế giới được miêu tả trong tác phẩm” [10;121]. Người trần thuật này vô cùng linh hoạt, biến
hóa: có khi như một người bạn mà tâm tình cùng nhân vật, có khi lại ở trong chính nội tâm của
nhân vật. Sự “đảm đang” này của người trần thuật khiến cho tác phẩm viết về lịch sử mà không
nhàm chán; phô bày nỗi đau tâm hồn mà không nặng nề; viết về bi kịch mà không thê lương; phản
ánh nhân tình thế thái mà tránh được giáo huấn xơ cứng.
2.2. Người trần thuật với điểm nhìn trần thuật đa hướng
2.2.1. Điểm nhìn nội quan (điểm nhìn bên trong, điểm nhìn tâm lí)
Phần lớn lời kể chuyện của người trần thuật trong tác phẩm đều xuất phát từ cái nhìn bên
trong nội tâm nhân vật, vừa kể vừa kết hợp miêu tả, đánh giá, bình luận. Ranh giới giữa lời kể của
người trần thuật với diễn biến tâm lí của nhân vật hầu như không có. Ở đây, việc mô tả sự kiện bị
đẩy xuống hàng thứ yếu, cái mà người trần thuật quan tâm là thái độ của mỗi nhân vật với sự kiện
91
Trần Văn Trọng và Nguyễn Thị Hiền
ấy. Đó là nỗi xót xa khi Doãn Xích Tầm từ nông trường về gặp Khiêu và Phàm đang mua rau mà
lòng anh “đau đớn tựa những mảnh thủy tinh cứa nát lòng” [7;159].
Vì trần thuật từ điểm nhìn tâm lí nên lời kể mang đậm dấu ấn của nhân vật, tức là lời trần
thuật từ điểm nhìn bên trong chịu sự chi phối của các đặc điểm giới tính, tuổi tác, vị trí xã hội. . .
cụ thể của nhân vật. Chẳng hạn khi Khiêu viết thư gửi cho bố để “tố cáo” mẹ thì ta thấy lời lẽ trong
bức thư vừa ngây thơ vừa già dặn, lẫn lộn những “không thể chịu được” với “vạch trần” như một
bản cáo trạng đẫm nước mắt. Khiêu dùng những từ “đao to búa lớn” để trút ra nỗi giận dữ trong
lòng, nỗi giận của đứa trẻ sớm phải lo lắng việc gia đình, sớm phải nếm trải những nỗi chua chát
mà người lớn gây ra. Thực ra, Khiêu càng muốn nói ra tội lỗi của mẹ thì càng không mong những
điều đó là sự thật.
2.2.2. Điểm nhìn ngoại quan (điểm nhìn bên ngoài)
Ngoại quan là đứng ngoài mà quan sát.Người trần thuật theo điểm nhìn bên ngoài là đại
diện cho tác giả, chủ thể sáng tạo nên tác phẩm.
Lời trần thuật theo điểm nhìn bên ngoài luôn đưa nhân vật trở về với hiện tại của Khiêu ở
tuổi gần bốn mươi và Phàm đã ra nước ngoài sinh sống. Khi đó người đọc được thoát ra khỏi cái
ngột ngạt của quá khứ buồn thương trong kí ức Khiêu, có được một khoảng lặng để lắng lòng mình
lại mà suy ngẫm. Lối trần thuật khách quan ấy tạo nên sự đối chiếu giữa hai chiều thời gian, giữa
con người trong quá khứ và con người của hiện tại. Phàm sinh sống ở Mỹ, lấy chồng rồi thay đổi
cả quốc tịch. Có thể “từ trong cốt tủy chưa bao giờ Phàm xem mình là người Mỹ, đáng tiếc Phàm
cũng không phải là người Trung Quốc, tình và nghĩa của người Trung Quốc, bất luận hư thực, cách
xa Phàm quá” [7;287]. Phàm không còn là cô em gái ngây thơ sùng bái Khiêu nữa, cô trở nên xa
lạ ngay chính ngôi nhà của mình, ngay giữa gia đình mình. Duy nhất chỉ có sức nặng của cái nắm
tay kéo lại năm xưa giữa hai chị em là được giữ lại nguyên vẹn. Kí ức tội lỗi ấy không buông tha
Phàm, cô càng tìm cách minh oan thì càng cảm thấy mình có tội. Bởi thế, dù họ không thừa nhận
nhưng với Khiêu và Phàm “hơn hai mươi năm qua bé Thuyên vẫn tồn tại” [7;8].
Trần thuật theo điểm nhìn bên ngoài còn bao hàm cả việc nhìn nhận sự việc trong ánh sáng
của một nền văn hóa khác. Ở đây tác giả dùng văn hóa Mỹ để đối chiếu với cách sống và suy nghĩ
của người Trung Quốc: “người Trung Quốc không bao giờ quên được ăn ăn ăn, lấy miếng ngon
làm hạnh phúc”; “dùng tiếng Trung Quốc để cãi nhau, cãi nhau mệt rồi ăn cháo Trung Quốc, cơm
Trung Quốc, rồi nằm ngủ không cần giữ ý - cách ngủ biếng nhác kiểu Trung Quốc” [7;284]. Việc
lựa chọn nước Mỹ làm điểm phóng chiếu để nhìn lại văn hóa Trung Hoa không phải là một việc
làm ngẫu nhiên của tác giả. Thời đại mở cửa, nước Mỹ trở thành “miền đất hứa” của nhiều người,
nước Mỹ giàu có, nước Mỹ văn minh, nước Mỹ sôi động, nước Mỹ là biểu tượng của tiền tài và
danh vọng. Phàm sang Mỹ sống “để không bị thiệt vốn tiếng Anh của mình” và cũng bởi “nước
Mỹ có nhiều thứ tốt đẹp hơn chờ Phàm”. Với khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh tốt như người bản
xứ, Phàm nhanh chóng tìm được công việc và người chồng ưng ý nơi đất khách. Thậm chí, cô còn
học cách làm công dân Mỹ một cách triệt để: “uống nước lạnh, khi đi làm uống nhiều cà phê, sau
khi ăn dùng tăm tẩm bạc hà, cho thật nhiều đá vào Coca Cola, sáng nào cũng tắm nước nóng, áo
chỉ mặc một lần rồi giặt...” [7;275]. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là vẻ bề ngoài. Thực ra, nước
Mỹ rộng lớn nhưng không dung nạp Phàm. Người Mỹ văn minh lịch sự nhưng Phàm không hiểu
thấu được tâm hồn họ. Ngay cả với chồng, Phàm vẫn cảm thấy xa cách: “mãi mãi không thể hiểu
nổi David và những bí mật của anh ta...” [7;276]. Phàm là một người Trung Quốc không tìm thấy
hạnh phúc trên mảnh đất quê hương nhưng cũng mãi mãi không thể hòa hợp với nước Mỹ. Phàm
92
Những cách tân trong tổ chức trần thuật tiểu thuyết Những người đàn bà tắm...
là kẻ tha hương ngay chính trong trái tim của mình.
Như vậy, điểm nhìn ngoại quan có khả năng đưa người đọc đến những vấn đề có ý nghĩa
xã hội rộng lớn: những khác biệt giữa hai nền văn hóa, số phận những con người bơ vơ nơi đất
khách,... Nhìn sự vật từ góc độ của một nền văn hóa xa lạ để thấy sự khác biệt nhưng cũng là một
cách để nhìn rõ hơn về chính mình. Điểm nhìn ngoại quan như là một sự bổ sung về chiều rộng
cho điểm nhìn nội quan, tạo nên cảm giác “lập thể” cho thế giới hư cấu trong tác phẩm.
2.2.3. Điểm nhìn phức hợp (sự di chuyển các điểm nhìn trần thuật)
Tiểu thuyết Những người đàn bà tắm là một điểm nhìn phức hợp lớn khi triển khai sự việc
trong một thời điểm cụ thể của lịch sử: thời kì Cách mạng Văn hóa và để các nhân vật có một quá
trình vận động vươn lên từ bóng tối đến ánh sáng, từ sai lầm đến sửa chữa sai lầm, từ tội lỗi đến
nhận hình phạt. Trong quá trình đó các nhân vật vừa có những hành động cụ thể vừa đấu tranh nội
tâm, và do đó lời kể của người trần thuật vừa phải có điểm nhìn bên trong, vừa phải có điểm nhìn
bên ngoài.
Điểm nhìn trần thuật di động hết sức linh hoạt giữa các nhân vật. Người trần thuật lúc thì
bước vào thế giới của nhân vật này, lúc thì bước vào thế giới của nhân vật khác. Sự di chuyển
điểm nhìn trần thuật này tạo nên tính đối thoại cao và “cảm giác lập thể rất phong phú” [9;34] cho
tác phẩm. Với cùng một biến cố, ở mỗi nhân vật lại có sự nhìn nhận khác nhau. Nhiệm vụ của
người trần thuật là nhanh tay “chộp” lấy những suy nghĩ đó, phô bày nó ra trước độc giả. Cái chết
của Thuyên khi mới hai tuổi đã ảnh hưởng vô cùng lớn đến không chỉ gia đình Khiêu mà còn với
cả những “người ngoài” như Đường Phi, bác sĩ Đường, Trần Tại. Với Chương Vũ, bé Thuyên chết
cũng như một sự “chấm hết”, chấm hết cho những tháng ngày lừa dối chồng con, chấm hết cho mối
tình vụng trộm của hai con người vốn chẳng thuộc cùng một thế giới. Thái độ của bác sĩ Đường
khác với Chương Vũ vì “cho dù cuộc đời của bé Thuyên chỉ hai năm anh cũng không lấy gì làm
bất ngờ, anh không quá đau khổ” [7;158]. Không phải bác sĩ Đường là kẻ tàn nhẫn, mà là xã hội
quá tàn nhẫn, anh cảm thấy nếu sống chúng sẽ còn phải chịu nhiều đau khổ hơn, như chị gái, cháu
gái và như chính bản thân anh... Có lẽ trong cái chết của bé Thuyên thì người bị ám ảnh nhiều nhất
là Khiêu. Tại sao khi nhìn thấy bé Thuyên đi qua miệng cống nước đã bị mở nắp Khiêu lại nắm
tay giữ Phàm lại? Đó là động tác ngăn cản hay là khống chế, là cảm giác hả hê hay cơn co giật
hoảng loạn? Chính Khiêu cũng không thể giải thích nổi. Khiêu rất muốn có được cảm giác thanh
thản như Đường Phi nhưng lại không thể có được. Khiêu đành “nén chặt nỗi sợ trong lòng với mục
đích quên đi nỗi sợ”. Phàm cũng vậy “vẫn nhớ mãi bàn tay Khiêu lần ấy, đấy cũng là chứng cớ để
Phàm tố cáo cái hư ảo và cái thực của Khiêu” [7;149].
2.3. Người trần thuật với giọng điệu trần thuật đa sắc
Người trần thuật là một “nhân vật đặc thù”, do nhà văn sáng tạo trong tác phẩm để mang
lời kể. Người trần thuật có chức năng tái hiện, phân tích, lí giải thế giới khách quan; tái hiện, phân
tích, lí giải sự việc, con người. Như vậy, người trần thuật là nhân vật chứng kiến câu chuyện và kể
lại câu chuyện ấy theo cách riêng của mình.
2.3.1. Giọng điệu hoài nghi
Tiểu thuyết Những người đàn bà tắm là một dấu chấm hỏi lớn của Thiết Ngưng đối với lịch
sử. Nếu cách mạng là đập tan cái xấu, xây dựng cái mới tốt đẹp thì tại sao số phận của những con
người trong Cách mạng văn hóa lại bi thảm đến vậy?
93
Trần Văn Trọng và Nguyễn Thị Hiền
Những nạn nhân của Cách mạng văn hóa được mô tả trong tác phẩm thuộc đủ mọi lứa tuổi,
mọi thành phần xã hội, cả nam giới lẫn phụ nữ nhưng nạn nhân trực tiếp lại chủ yếu là những người
phụ nữ. Cô giáo Đường Tân Tân bị đem ra đấu tố giữa sân trường, người ta bắt cô đeo trước ngực
tấm biển “Tôi là một con đĩ”, họ xô đẩy bắt cô quỳ, bắt cô liếm giày, ăn phân,... Họ nhân danh đạo
đức để làm những việc vô đạo đức. Họ công khai chửi mắng, xỉa xói một cô giáo ngay trước mặt
học sinh, cả những đứa trẻ lên sáu như Khiêu cũng phải có mặt để chứng kiến điều đó. Những tâm
hồn non nớt, ngây thơ lại đã nhiễm phải thói độc ác ngay chính nơi mà chúng được dạy dỗ thành
người. Người đọc không khỏi nhăn mặt ghê sợ khi nhà văn phân tích tâm lí của đám đông cách
mạng ấy: “nhiều người không nghĩ như Khiêu, bọn họ không muốn cô khai báo. Khi mọi người
phải lựa chọn khai báo và ăn phân thì bọn họ muốn không phải là thấy người kia khai báo, mà
muốn thấy người đó ăn phân”[7;47].
Không chỉ với lịch sử, Thiết Ngưng còn chỉ tỏ thái độ hoài nghi với cả tình yêu. Quan niệm:
“Trên thế gian không gì hoàn chỉnh bằng trái tim tan vỡ” đã chi phối toàn bộ tình yêu của các nhân
vật.
2.3.2. Giọng điệu tâm trạng
Với một tiểu thuyết thiên về miêu tả tâm lí như Những người đàn bà tắm thì việc xuất hiện
giọng điệu tâm trạng là điều dễ hiểu. Giọng điệu tâm trạng chiếm hầu hết trong lời văn của tác
phẩm, nhất là những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật. Giọng điệu tâm trạng có được khi nhà văn
để người trần thuật lồng vào lời kể của mình ít nhiều cảm xúc. Tâm trạng đó là những cung bậc
cảm xúc khác nhau, có thể là vui sướng hân hoan hay buồn thương hờn giận. Giọng điệu tâm trạng
khiến cho những con chữ vô hồn bỗng trở nên “người” hơn và sống động hơn. Giọng điệu tâm
trạng trong tiểu thuyết Những người đàn bà tắm hòa lẫn vào trong lời kể của người trần thuật, hòa
vào lời của nhân vật. Đó là giọng trữ tình sâu lắng khi người trần thuật nói về sự trỗi dậy của tình
cảm gia đình tưởng như không tồn tại bấy lâu nay: “Đường Phi ôm lấy cậu mà khóc ngay trong
phòng sản. Trong tiếng khóc, cậu cháu đã trút được những nỗi phiền muộn và đau thương không
nói được thành lời, bù đắp những hụt hẫng trong tình cảm. Trong tiếng khóc, cậu cháu đã tha thứ
cho nhau, tình thân máu mủ đã làm dịu nỗi đau của da thịt và trái tim” [7;140].
Giọng điệu tâm trạng cũng gắn với lời bày tỏ của một tình yêu nồng nàn, say đắm: “nhưng
em biết anh yêu em, anh yêu em từ năm em mười hai tuổi, hồi đó anh mười bảy tuổi, chưa hiểu yêu
là gì, nhưng anh đã yêu em” [10;344]. Hay nỗi đau xót của Khiêu ngày Đường Phi mất: “Những
người đàn ông kia đâu rồi? Những người đàn ông đã được tận hưởng Phi, coi Phi như đồ chơi và
cũng bị Phi coi như đồ chơi đâu cả rồi?” [7;367].
Những mảnh tâm trạng buồn, vui, đau xót, hờn giận,... cứ trải ra trong suốt chiều dài tác
phẩm và chiều sâu nội tâm nhân vật. Nó như những đợt sóng trào dâng trong tình cảm của các
nhân vật đều được thể hiện rất thật, có khả năng khơi gợi sự đồng cảm của người đọc. Giọng điệu
tâm trạng khiến cho sự bày tỏ của nhân vật trở nên chân thành, tha thiết và có sức lay động mãnh
liệt. Và lời kể mang tâm trạng đã “làm cho phát ngôn trở thành thơ” (Jacobson). Giọng điệu tâm
trạng trong Những người đàn bà tắm nói riêng và các sáng tác của Thiết Ngưng nói chung đều có
một đặc điểm rất dễ nhận thấy, đó là mang đậm ý thức nữ tính, xu hướng muốn được tâm sự, đối
thoại cùng người đọc.
94
Những cách tân trong tổ chức trần thuật tiểu thuyết Những người đàn bà tắm...
2.3.3. Giọng điệu triết lí
Những người đàn bà tắm không chỉ là câu chuyện về một thời kì bão giông trong lịch sử
Trung Hoa. Truyền tải được cả một nội dung lớn lao như thế không phải là điều đơn giản mà nhà
văn phải vận dụng được hết khả năng quan sát, óc tưởng tượng và mang cả tâm hồn, tình cảm của
mình vào đó. Điều này được thể hiện đặc biệt rõ khi nhà văn dùng giọng điệu triết lí để nhận thức
lại mọi hiện tượng xảy ra trong cuộc sống.
Cái chết thê thảm của bác sĩ Đường đem lại nhiều suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc. Bác sĩ
Đường chỉ là một con người bình thường, không biết nói những lời hoa mĩ, không biết “đem rao
bán và lợi dụng sự khổ đau của mình”. Anh chết cũng vì đã vụng trộm thỏa mãn nhu cầu rất bình
thường của con người. Nếu như sự việc này xảy ra với Phương Kăng thì sao nhỉ? Cái chết ấy “nhất
định không còn là sự việc bình thường” nữa mà “sẽ là tiểu thuyết, sẽ là điện ảnh, sẽ là phim truyền
hình, sẽ là truyền kì, sẽ là bản năng thu hút khác giới” [7;217].
Viết về cái trớ trêu của kiếp người thời đại ấy, Thiết Ngưng đã nghiệm ra rằng:“Đau khổ
của người bình thường chỉ có thể là bình thường,... Đau khổ xảy ra cho một đám người mới xứng
đáng là “thật”. Đau khổ của người nổi tiếng sẽ trở thành một chú hề ... đồng thời với sự chuẩn bị
nước mắt bạn còn cần chuẩn bị để hoan hô nữa”[7;217].
Như vậy, giọng điệu triết lí thường được nhà văn sử dụng khi đề cập đến những vấn đề có
ý nghĩa nhân sinh, xã hội sâu sắc. Thông qua cuộc đời, số phận các nhân vật, Thiết Ngưng đã đưa
đến một cái nhìn mới mẻ, chân xác về lịch sử.
Thiết Ngưng không phải mẫu nhà văn ưa triết lí, trong tiểu thuyết Những người đàn bà tắm
không hề thấy sự rao giảng đạo đức hay luân lí, và tác giả cũng không có ý muốn dạy cho người
đọc thế nào là xấu, thế nào là tốt. Nhà văn chỉ dồn tâm huyết của mình vào thế giới trong tác phẩm,
dùng hết năng lực của mình để “phanh phui đến tận cùng thế giới tâm linh và trạng thái sinh tồn
của nhân vật” [7;1] và trao quyền xét đoán về tay người đọc. Nhưng không phải vì thế mà nhà văn
để tác phẩm của mình trở thành một thứ “văn chương minh họa” hay một thứ “văn chương giải
trí”, đọc cho vui, đọc để giết thời gian. Những vấn đề mà Thiết Ngưng đưa ra trong tiểu thuyết
Những người đàn bà tắm, dù thuộc về một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng vẫn có giá trị phổ
quát đến ngày hôm nay và mai sau.
2.3.4. Giọng điệu khách quan
Giọng điệu khách quan có được khi người trần thuật trở về với vị trí của một “người trần
thuật sử quan”, rời khỏi những xáo động trong thế giới nội tâm nhân vật để miêu tả sự việc theo
bằng con mắt khách quan của người ngoài cuộc. Giọng điệu khách quan thường gắn với việ