Những cơ sở cơ bản để Hồ Chí Minh tiếp xúc, khẳng định, đi theo, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin

I. MỞ ĐẦU Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng, khoa học, sáng tạo, nhân văn, triệt để; đỉnh cao của tri thức nhân loại, trí tuệ thời đại. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (7/1920), đánh dấu bằng sự kiện Ngƣời gặp Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - đỉnh cao của tri thức nhân loại, trí tuệ thời đại, nhƣng Ngƣời không dừng ở đỉnh cao, mà tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo đỉnh cao lên một đỉnh cao mới. Bài viết bƣớc đầu, tập trung đi sâu nghiên cứu góp phần làm rõ những cơ sở, điều kiện cơ bản để Hồ Chí Minh tiếp xúc, khẳng định, đi theo, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 175 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những cơ sở cơ bản để Hồ Chí Minh tiếp xúc, khẳng định, đi theo, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam |88 NHỮNG CƠ SỞ CƠ BẢN ĐỂ HỒ CHÍ MINH TIẾP XÖC, KHẲNG ĐỊNH, ĐI THEO, VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN TS. Trần Bình Tuyên Nhà xuất bản Đại học Huế Tóm tắt Trong bài viết, tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá những cơ sở cơ bản, nền tảng, hạt nhân, then chốt để Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Từ khóa: Cơ sở, vận dụng và phát triển, Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin. I. MỞ ĐẦU Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng, khoa học, sáng tạo, nhân văn, triệt để; đỉnh cao của tri thức nhân loại, trí tuệ thời đại. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (7/1920), đánh dấu bằng sự kiện Ngƣời gặp Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - đỉnh cao của tri thức nhân loại, trí tuệ thời đại, nhƣng Ngƣời không dừng ở đỉnh cao, mà tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo đỉnh cao lên một đỉnh cao mới. Bài viết bƣớc đầu, tập trung đi sâu nghiên cứu góp phần làm rõ những cơ sở, điều kiện cơ bản để Hồ Chí Minh tiếp xúc, khẳng định, đi theo, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. II. NỘI DUNG 2.1. Bối cảnh thực tiễn lịch sử và những yêu cầu bức thiết của quốc tế và dân tộc Việt Nam, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX a. Bối cảnh thực tiễn lịch sử của quốc tế và dân tộc Việt Nam, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tƣ bản (CNTB) từ tự do cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ). CNĐQ đã tiến hành xâm lƣợc thuộc địa, hình thành hệ thống thuộc địa khổng lồ, phụ thuộc vào các nƣớc tƣ bản. Đầu thế kỷ XX, Cách mạng tháng Mƣời Nga thành công (1917), đã lật đổ nhà nƣớc tƣ sản, thiết lập Chính quyền Xô viết mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài ngƣời, đã làm thức tỉnh và đem đến nhiều niềm tin, hy vọng cho các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Quốc tế “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 89| Cộng sản III (3/1919) do Lênin sáng lập ra đời, có trụ sở đóng ở Mátxcơva, có vai trò lãnh đạo các Đảng cộng sản và phong trào cộng sản quốc tế là trƣờng học cộng sản, có vai trò đào luyện những cán bộ cộng sản. Hồ Chí Minh làm việc và đƣợc đào luyện trong trƣờng học này. Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mặt dù có sự phát triển mạnh mẽ, nhƣng bộc lộ những hạn chế nhất định nhƣ xuất hiện bọn cơ hội chủ nghĩa theo khuynh hƣớng tƣ sản, nghi kị, coi thƣờng cách mạng thuộc địa, không thấy đƣợc sự cần thiết phải đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốcTrong bối cảnh ấy, để khắc phục những hạn chế trên, thúc đẩy cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển đúng hƣớng, V.I. Lênin đã viết Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa để thông qua tại Đại hội 2, của Quốc tế cộng sản. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ một nƣớc phong kiến độc lập, khi Pháp xâm lƣợc (1858), Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nƣớc, tiến bộ, gần gũi với nhân dân, quý trọng con ngƣời, đề cao sự học; trong một vùng quê giàu truyền thống văn hóa, cách mạng, kế thừa truyền thống yêu nƣớc của dân tộc, Nguyễn Tất Thành đã hình thành tấm lòng yêu nƣớc, thƣơng dân, ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, cứu dân. Trƣớc khi ra đi, Ngƣời tổng kết các các phong trào yêu nƣớc, các con đƣờng cứu nƣớc của các nhà cách mạng Việt Nam tiền bối theo các khuynh hƣớng, lập trƣờng tƣ tƣởng khác nhau ở nƣớc ta đã diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi, rộng khắp nhƣng đều thất bại. Ngƣời kính yêu, khâm phục tấm lòng yêu nƣớc nhiệt thành của các nhà cách mạng Việt Nam tiền bối, nhƣng không tán thành con đƣờng cứu nƣớc của họ. Khi ra nƣớc ngoài tìm đƣờng cứu nƣớc, cứu dân, Ngƣời đã đi nhiều nƣớc trên thế giới, để khảo sát các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và cho rằng cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ tuy là thành công, nhƣng chƣa triệt để, chỉ có Cách mạng tháng Mƣời Nga là thành công, thành công triệt để. Ngƣời khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng đƣợc hƣởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối nhƣ đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi đƣợc vua, tƣ bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nƣớc và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tƣ bản trong thế giới”1. Từ Cách mạng tháng Mƣời Nga, Ngƣời bắt gặp Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin (1920), và 1 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.304. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam |90 tìm ra con đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc từ chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh năm 1927, Ngƣời viết: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tƣ và Lênin”2 . “Ngọn đuốc lý luận Mác - Lênin và kinh nghiệm Cách mạng tháng Mƣời vĩ đại soi sáng con đƣờng cách mạng Việt Nam. Muốn cứu nƣớc và giải phóng dân tộc không có con đƣờng nào khác con đƣờng cách mạng vô sản”3. “Ở nƣớc ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xa về cái “cẩm nang” đầy phép lạ thần tình. Khi ngƣời ta gặp những khó khăn lớn, ngƣời ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những ngƣời cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đƣờng chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”4. Tóm lại, bối cảnh quốc tế và dân tộc, lòng yêu nƣớc, thƣơng dân, tổng kết các phong trào yêu nƣớc và khảo sát cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, là cơ sở cơ bản, quan trọng đầu tiên tạo động lực để Ngƣời ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, cứu dân và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngƣời đã đến, tiếp xúc, khẳng định, đi theo, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. b. Những yêu cầu bức thiết của quốc tế và dân tộc Việt Nam, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Thực tiễn lịch sử thế giới, dân tộc, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đặt ra những vấn đề lớn nhƣ chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, vấn đề dân tộc thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, xu thế phát triển thời đại, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhu cầu, khát vọng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc Việt Nam... Bối cảnh quốc tế và dân tộc trên đây, đã đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề lớn là làm thế nào để giải phóng và phát triển các dân tộc thuộc địa trên thế giới, trong đó có dân tộc Việt Nam. Chính bối cảnh đó đã thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, cứu dân và là “cơ duyên” lịch sử đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Là một ngƣời yêu nƣớc và có tinh thần quốc tế sâu sắc, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến những vấn đề lớn của dân tộc và thời đại là chủ nghĩa thực dân, cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa, chủ nghĩa xã hội... Là ngƣời đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, Ngƣời luôn luôn 2 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.304 3 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30. 4 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.563. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 91| nung nấu tìm cách giải quyết những vấn đề đó theo lập trƣờng của chủ nghĩa Mác - Lênin để cứu nƣớc, giải phóng dân tộc và nhân loại khổ đau. Ngƣời tâm niệm: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nƣớc ta đƣợc hoàn toàn độc lập, dân ta đƣợc hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đƣợc học hành”5; “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”6. “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nƣớc Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”7. Đó là thông điệp Hồ Chí Minh gửi đến quốc dân đồng bào mục đích phấn đấu suốt đời của mình. Chính mục đích cuộc sống vì dân tộc, nhân loại, đòi hỏi phải, thôi thúc Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngƣời nói: “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xƣa nay chƣa từng có trong lịch sử dân tộc ta... Trong những điều kiện nhƣ thế, chúng ta phải dùng những phƣơng pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội? Đó là những vấn đề đặt ra trƣớc mắt Đảng ta hiện nay. Muốn giải quyết tốt những vấn đề đó, muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm, thì chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nƣớc anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dƣỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trƣờng, quan điểm, phƣơng pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nƣớc ta. Có nhƣ thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu đƣợc quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra đƣợc những đƣờng lối, phƣơng châm, bƣớc đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nƣớc ta”8. GS. Đặng Xuân Kỳ, trong cuốn Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, viết: “Thực tiễn sống động của phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới là căn cứ xuất phát để suy nghĩ, hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Ngƣời đã đặt các dữ kiện tƣ tƣởng trên mảnh đất thực tiễn ấy để từng bƣớc xác lập một hệ thống tƣ tƣởng, luận điểm có ý nghĩa quyết định vận mệnh của dân tộc và đóng góp 5 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.187. 6 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.272 7 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.614. 8 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.92. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam |92 to lớn vào phong trào cách mạng thế giới”9. Nhƣ vậy, những yêu cầu bức thiết của quốc tế và dân tộc “thực tiễn sống động của phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới”, nhu cầu “nƣớc ta đƣợc hoàn toàn độc lập, dân ta đƣợc hoàn toàn tự do”, “quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”, là cơ sở, động lực để Hồ Chí Minh đã đến, tiếp xúc, khẳng định, đi theo, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh. 2.2. Tinh hoa văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ của thời đại cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Trong quá trình tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam đã kiến trúc, hun đúc, tạo dựng cho mình một hệ thống thang bậc các giá trị truyền thống mà nổi bật là: Chủ nghĩa yêu nƣớc và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nƣớc và giữ nƣớc; tinh thần nhân nghĩa và truyền thống đoàn kết; truyền thống lạc quan yêu đời; truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học hỏi Trong hệ thống đó, truyền thống yêu nƣớc đứng ở vị trí hàng đầu, là tƣ tƣởng, tình cảm thiêng liêng nhất; là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lòng dũng cảm, chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc Việt Nam; biểu trƣng cho tiềm năng, khả năng, sức mạnh, trí tuệ, bản lĩnh, tầm vóc Việt Nam Truyền thống dân tộc nói chung, truyền thống yêu nƣớc nói riêng, đó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, không ngừng học hỏi, tiếp thu, thâu thái tinh hoa văn hóa nhân loại làm giầu cho “hành lý trí tuệ và hành trang tinh thần” để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Sau này, Ngƣời nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nƣớc, chứ chƣa phải chủ nghĩa cộng sản đã đƣa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”10. Ngoài tinh hoa văn hóa dân tộc, Ngƣời còn không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại: Hồ Chí Minh tiếp thu một cách có phê phán, gạn lọc tinh hoa văn hóa Đông, Tây, Kim, Cổ, truyền thống và hiện đại. Tinh hoa văn hóa nhân loại, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam tạo nên ở Hồ Chí Minh - “Một con ngƣời gồm kim, cổ, Tây, Đông. Giàu quốc tế, đậm Việt Nam từng nét”11, một bản lĩnh trí tuệ, một tầm vóc văn hóa hiếm có khi Ngƣời mới ở độ tuổi 34. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ trƣớc trƣớc Oxít Manđaxtem - một nhà thơ cộng sản ngƣời Nga đã nhận xét: Dân 9 GS. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) (1997), “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.164. Hồ Chí Minh - Truyện. Bản dịch Trung văn của Trƣơng Niệm Thức, Bát nguyệt xuất bản xã Thƣợng Hải, 1949. 10 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.563. 11 Dựa theo PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, bài “Sự khởi đầu và mãi mãi”, http:// cpv.org.vn. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 93| tộc An Nam là một dân tộc rất giản dị và lịch thiệp, rất ghét những gì thái quá. “Dáng dấp của con ngƣời đang ngồi trƣớc mặt tôi đây, Nguyễn Ái Quốc, cũng đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị... Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hoá, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tƣơng lai”12. “Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta nhƣ nghe thấy ngày mai, nhƣ thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”13. Nhà báo, nhà văn Mỹ, Đâyvít Hanbơcstơn nhận xét: “Hồ Chí Minh gần với Lênin, Giăngđi, Oasinhtơn - một Lênin phƣơng Đông, một Găngđi mácxít, một Oasinhtơn Việt Nam, nhƣng lại rất Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại này - hơi giống Găngđi, hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam” 14, “Cụ Hồ là Oasinhtơn của Việt Nam”15. Chính tinh hoa văn hóa nhân loại, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam là cơ sở để Ngƣời so sánh, sàng lọc các học thuyết, chủ nghĩa trên thế giới, là nền tảng tạo nên tầm vóc và bản lĩnh trí tuệ, nâng cao tƣ duy, độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin - đỉnh cao trí tuệ thời đại. Sau này, Ngƣời nói: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhƣng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”16. Trả lời phỏng vấn báo Nhân đạo (L'Humanite') vào ngày 15/7/1969, Hồ Chí Minh khẳng định: “Về phần chúng tôi, chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhƣng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành đƣợc những thắng lợi to lớn nhƣ đồng chí đã biết. Chúng tôi giành đƣợc thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhƣng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành đƣợc những thắng lợi đó trƣớc hết nhờ cái vũ khí không gì thay thế đƣợc là chủ nghĩa Mác - Lênin”17. Đánh giá về vai trò của tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân lạo đối với quá trình Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, trong bài “Tư tưởng Hồ Chí Minh: Sinh khí của một học thuyết”, tác giả Trần Bạch Đằng viết: “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đƣợc ấp ủ lâu dài trong cái nôi chủ nghĩa yêu nƣớc, tẩm mình sâu sắc trong hồn dân tộc, là kết tinh của truyền thống nhiều nghìn năm 12 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 463. 13 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.463. 14 Đavit Hanbơcxtam (1971), Hồ, Nxb Răngđôm Haosơ, 1971. 15 Xã luận báo Thế giới hàng ngày, ngày 5/9/1969. 16 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289. 17 Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.589-590. Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam |94 dựng nƣớc và giữ nƣớc của nhân dân Việt Nam. Trên cái nền kiên cố ấy, trên mảnh đất phì nhiêu ấy, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh gạn lọc các hạt giống trí tuệ cổ kim phƣơng Đông, phƣơng Tây và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, sản phẩm khoa học hiện đại vào một đất nƣớc cụ thể. Ngƣời ta không thể tìm thấy chủ nghĩa quốc gia cực đoan, thủ cựu, hẹp hòi, vị kỷ, cũng nhƣ ngƣời ta không thể tìm thấy chủ nghĩa quốc tế không tƣởng trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh...”18. Nhƣ vậy, tinh hoa văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo nên “nền tảng kiên cố”, “mảnh đất phì nhiêu” tƣ tƣởng, văn hóa cơ bản để Hồ Chí Minh tiếp cận, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. 2.3. Những nhân tố chủ quan, đặc biệt là phẩm chất và năng lực thuộc về cá nhân Hồ Chí Minh Để tiếp xúc, khẳng định, đi theo, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, ngoài bối cảnh thực tiễn lịch sử và những yêu cầu bức thiết của quốc tế và dân tộc Việt Nam, cơ sở tinh hoa văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, trí tuệ của thời đại cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, không thể không kể đến nhân tố chủ quan thuộc về cá nhân Hồ Chí Minh. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn đến việc hình thành và phát triển tƣ tƣởng của Ngƣời. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh là: tƣ duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán tinh tƣờng và sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng trong nƣớc và trên thế giới; là trí tuệ lớn, bậc “đại trí” tinh thông, uyên bác trên nhiều lĩnh vực; sự khổ công học tập, rèn luyện chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân loại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin với tƣ cách là học thuyết về cách mạng của giai cấp vô sản; có tâm hồn của một ngƣời yêu nƣớc vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng; một trái tim yêu thƣơng nhân dân, thƣơng ngƣời cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập của Tổ Quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Hồ Chí Minh, đã từng tâm sự: “ cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ đƣợc học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và rèn luyện trong thực tế đấu tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân lý chủ nghĩa Mác - Lênin, đã từ một ngƣời yêu nƣớc tiến bộ thành một chiến sĩ xã hội chủ nghĩa”19. Nhƣ vậy, cùng với tƣ duy, trí tuệ, phẩm chất, bề dày thực tiễn và năng lực tổng kết thực tiễn, sự học tập và rèn luyện không ngừng của Ngƣời, đã giúp Ngƣời tiếp xúc, khẳng định, đi theo, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong cuốn Hồ Chí 18 Trần Bạch Đằng (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh: Sinh khí của một học thuyết, đến với Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ, tháng 2/2007. “100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020) 95| Minh nhà cách mạng sáng tạo, do GS.TS. Mạch Quang Thắng (Chủ biên), khẳng định: “Do có trí tuệ uyên bác, miệt mài học tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, nghiên cứu các bài học và tổng kết kinh nghiệm của các cuộc cách mạng thế giới, hoạt động thực tiễn sôi nổi trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức mới. Từ đó, ngƣời đƣa ra những quan điểm mới, những nhận định mới về sự phát triển của phong trào cách mạng, về đƣờng lối và phƣơng pháp cách mạng cho các nƣớc thuộc địa và phụ thuộc, trƣớ