Những đặc diểm kinh tế chủ yếu của các nước Asean

. Thái Lan Trong những năm gần đây nền kinh tế Thái Lan có xu hướng tăng trưởng mạnh tuy vẫn hàm chứa nhiều rủi ro. Thái Lan là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới và cũng là nước có ngành kinh doanh du lịch rất phát triển. GDP: Năm 2005, GDP đạt 183,9 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng là 4,5%, thu nhập bình quân đầu người là 2.736 USD. Tăng trưởng kinh tế năm 2005 phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu nội địa gia tăng. Năm 2005 ở khu vực tư nhân tiêu dùng tăng 5,1%, đầu tư tăng 16,3%, trong khi ở khu vực công tiêu dùng tăng 6,9% và đầu tư tăng 24%. Việc làm: Tình hình thất nghiệp liên tục được cải thiện. Số người có việc làm tăng từ 33,8 triệu người năm 2003 lên 34,7 triệu người năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 3% năm 2002 xuống 2,1% năm 2004 và 1,4% năm 2005. Xuất nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây tăng liên tục từ 68,6 tỷ USD năm 2002 lên 96,1 tỷ USD năm 2004 và 105,8 tỷ USD năm 2005, chủ yếu nhờ vào sự hồi phục kinh tế của của các bạn hàng lớn nhất của Thái Lan như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Ngoài ra xuất khẩu của Thái Lan còn được đẩy mạnh nhờ các thỏa thuận tự do thương mại song phương như với Trung Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Peru, Bahrain. Những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Thái Lan là vải sợi, giày dép, các sản phẩm từ cá, gạo, đồ trang sức, máy vi tính và các thiết bị điện tử. Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng từ 64,3 tỷ USD năm 2002 lên 94,4 tỷ USD năm 2004 và 107 tỷ USD với các mặt hàng chủ yếu là nguyên liệu thô, hàng tiêu dùng, nhiên liệu. Thị trường nhập khẩu chính từ Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Malaysia, Các Tiểu vương quốc A rập thống nhất, Singapore.

pdf32 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1119 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những đặc diểm kinh tế chủ yếu của các nước Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những đặc diểm kinh tế chủ yếu của các nước ASEAN Câu 1: Những đặc diểm kinh tế chủ yếu của các nước ASEAN 1. Thái Lan Trong những năm gần đây nền kinh tế Thái Lan có xu hướng tăng trưởng mạnh tuy vẫn hàm chứa nhiều rủi ro. Thái Lan là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới và cũng là nước có ngành kinh doanh du lịch rất phát triển. GDP: Năm 2005, GDP đạt 183,9 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng là 4,5%, thu nhập bình quân đầu người là 2.736 USD. Tăng trưởng kinh tế năm 2005 phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu nội địa gia tăng. Năm 2005 ở khu vực tư nhân tiêu dùng tăng 5,1%, đầu tư tăng 16,3%, trong khi ở khu vực công tiêu dùng tăng 6,9% và đầu tư tăng 24%. Việc làm: Tình hình thất nghiệp liên tục được cải thiện. Số người có việc làm tăng từ 33,8 triệu người năm 2003 lên 34,7 triệu người năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 3% năm 2002 xuống 2,1% năm 2004 và 1,4% năm 2005. Xuất nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây tăng liên tục từ 68,6 tỷ USD năm 2002 lên 96,1 tỷ USD năm 2004 và 105,8 tỷ USD năm 2005, chủ yếu nhờ vào sự hồi phục kinh tế của của các bạn hàng lớn nhất của Thái Lan như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Ngoài ra xuất khẩu của Thái Lan còn được đẩy mạnh nhờ các thỏa thuận tự do thương mại song phương như với Trung Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Peru, Bahrain. Những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Thái Lan là vải sợi, giày dép, các sản phẩm từ cá, gạo, đồ trang sức, máy vi tính và các thiết bị điện tử. Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng từ 64,3 tỷ USD năm 2002 lên 94,4 tỷ USD năm 2004 và 107 tỷ USD với các mặt hàng chủ yếu là nguyên liệu thô, hàng tiêu dùng, nhiên liệu. Thị trường nhập khẩu chính từ Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Malaysia, Các Tiểu vương quốc A rập thống nhất, Singapore. Lạm phát: Tỷ lệ lạm phát năm 2004 là 2,8%, năm 2005 là 4,1%. Dự trữ ngoại hối: 52,07 tỷ USD (năm 2005). Nợ nước ngoài: 52,46 tỷ USD (năm 2005). Cán cân thương mại: Kể từ sau cuộc khủng hoảng năm 1997, cán cân thương mại luôn đạt thặng dư (xuất siêu), tuy nhiên mức độ thặng dư có khuynh hướng giảm dần do nhu cầu trong nước tăng mạnh. Thặng dư trong cán cân thương mại năm 2004 là 1,4 tỷ USD. Tỷ giá hối đoái: 1 USD = 40,2 baht (2005). Chi tiêu ngân sách: Trong năm tài khóa 2004 tổng thu ngân sách là 1.127,153 tỷ baht (chiếm 17,6% GDP), chi ngân sách là 1.140,110 tỷ baht (chiếm 16,5% GDP), thâm hụt 12,957 tỷ baht (chiếm 0,2% GDP). Chính sách tiền tệ: Do Ủy ban Chính sách Tiền tệ hoạch định, với mục tiêu bình ổn giá cả, kiểm soát lạm phát nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, thông qua việc áp dụng tỷ giá mua lại 14 ngày làm tỷ giá chủ yếu. Triển vọng trung hạn: Trong giai đoạn trung hạn (2005-2009), theo dự báo của Bộ Tài chính Thái Lan, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ đứng ở mức 5,9%/năm với tỷ lệ lạm phát là 3,2%/năm. Tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này chủ yếu nhờ vào sự phát triển ổn định của nhu cầu tiêu dùng khu vực tư nhân, xuất khẩu gia tăng, đầu tư tăng mạnh ở cả khu vực công và tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất. 2.Indonexia Indonesia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú với trữ lượng lớn dầu lửa, khí đốt, thiếc, đồng và vàng. Indonesia là thành viên của tổ chức các Quốc gia Xuất khẩu Dầu lửa OPEC và đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu khí đốt. Mặc dù Indonesia xuất khẩu dầu thô nhưng vẫn phải nhập khẩu dầu lọc, do đó Chính phủ phải trợ giá xăng dầu để giữ giá nhiên liệu ở mức thấp (năm 2004 mức trợ giá xăng dầu của Chính phủ là 7 tỷ USD). Gần đây Chính phủ Indonesia đang thực hiện cắt giảm dần sự trợ giá này. Indonesia là một trong những nền kinh tế chịu hậu quả nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực cuối thập niên 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên hiện nay, nền kinh tế Indonesia đang trong giai đoạn phục hồi tốt. Tăng trưởng GDP: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực tháng 7- 1997 đã làm cho nền kinh tế của Indonesia lâm vào khủng hoảng trầm trọng: năm 1998 mức tăng GDP là -12,2% (trước khủng hoảng GDP trung bình tăng 7-8%). Tuy nhiên, từ năm 1999, nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi. Năm 2004, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt mức 5,13% và 2005 ở mức 6%, bằng mức trước khủng hoảng. Mức tăng trưởng này diễn ra trên hầu khắp các khu vực trong nền kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực chế tạo, giao thông và viễn thông; và được đi kèm với sự tăng nhanh của đầu tư và xuất khẩu. Để tạo đà tăng trưởng ổn định, Chính phủ đã cam kết tạo một môi trường thuận lợi cho đầu tư và giảm thâm hụt ngân sách xuống dưới 1% GDP. Năm 2005 GDP đạt mức 270 tỷ USD, tính theo đầu người đạt mức 3.600 USD/năm. Lạm phát: Trong năm 2004, tiền tệ cơ sở được kiểm soát tốt và tỷ giá hối đoái đồng Rupiah ổn định đã giúp Ngân hàng Trung ương kìm hãm lạm phát giá tiêu dùng (CPI) ở mức 6,4%, và vẫn nằm trong giới hạn mục tiêu là 5,5% +/- 1%. Những yếu tố chính tạo sức ép lạm phát là sự tăng giá nhà, thực phẩm, giao thông, viễn thông và đặc biệt là giá năng lượng. Trong thời gian tới, lạm phát dự đoán sẽ tiếp tục tăng do kế hoạch của chính phủ giảm trợ cấp xăng dầu cộng với xu hướng giảm giá của đồng nội tệ. Việc làm: Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế, số lượng việc làm mới được tạo ra cũng tăng, song thị trường lao động vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp là 9,9% (tương đương khoảng 10,3 triệu người). Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao là do số lượng việc làm mới được tạo ra thấp hơn so với số lượng người mới tham gia vào thị trường lao động, cộng với việc một số ngành công nghiệp dệt may, giày da và hàng không cắt giảm số lượng công nhân. Thương mại: Indonesia xuất khẩu khí đốt đứng hàng thứ hai trên thế giới và cũng xuất khẩu dầu thô với số lượng lớn. Bên cạnh dầu khí, Indonesia còn xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp như dầu cọ, gạo, chè, cà phê, tiêu và cao su. Mặt hàng nhập khẩu chính là dầu lọc, máy móc thiết bị Các đối tác thương mại lớn là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Malaysia và Australia. Cán cân thanh toán: Tình hình cán cân thanh toán của Indonesia năm 2004 tiếp tục được cải thiện. Tài khoản vãng lai thặng dư ở mức kỷ lục nhờ tăng xuất khẩu. Tài khoản vốn năm 2004 cũng đạt mức thặng dư nhờ dòng vốn đổ vào của khu vực tư nhân. Nhìn chung, cán cân thanh toán năm 2004 đạt mức thặng dư và dự trữ ngoại hối tăng lên 36,3 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 2005, cán cân thanh toán xấu đi do nhập khẩu tăng mạnh trong khi xuất khẩu tăng không đáng kể đồng thời thặng dư tài khoản vốn cũng giảm; dẫn tới dự trữ ngoại hối giảm xuống còn khoảng 30,6 tỷ USD. Tỷ giá hối đoái: Năm 2004, tỷ giá hối đoái của đồng Rupiah tương đối ổn định, nhất là sáu tháng cuối năm, đứng ở mức 8.940 Rupiah/1 USD, so với năm 2003 giảm 3,9%. Năm 2005, tỷ giá hối đoái là 9.704,7 Rupiah/1 USD. Sự ổn định tỷ giá hối đoái một phần nhờ vào các biện pháp quản lý tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ, sự tăng cường và thống nhất trong các chính sách quản lý, hệ thống ngân hàng phục hồi tốt và sự kỳ vọng tích cực của các nhà đầu tư vào triển vọng nền kinh tế. Chính sách thu chi ngân sách: Chính sách thu chi ngân sách được thiết lập để phục vụ kế hoạch phát triển trung hạn, nhằm đảm bảo tính bền vững của ngân sách thông qua việc giảm thâm hụt ngân sách và phấn đấu đạt được cân bằng ngân sách vào năm 2008. Để giảm thâm hụt ngân sách, Chính phủ có một số chính sách cụ thể như cải thiện kỷ luật thu chi tài chính, giảm dần trợ cấp và nợ nước ngoài, tăng dần doanh thu từ thuế, cải cách chi tiêu của chính phủ. Quyết tâm cải thiện cán cân ngân sách được thực hiện kiên quyết và cũng đang phát huy tác dụng. Năm 2004, dự kiến mức thâm hụt là 26.300 tỷ rupiah (1,3% GDP) nhưng thực tế là 28.600 tỷ (1,4% GDP) do giá dầu tăng và thiên tai; so với năm 2003 là giảm được 1,9%. Nợ nước ngoài: Nợ nước ngoài khu vực công là khoản nợ nước ngoài của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương. Năm 2004, 85,5% nợ nước ngoài khu vực công là của Chính phủ. Nợ nước ngoài có xu hướng tăng từ 69,4 tỷ USD năm 2001, lên 74,5 tỷ USD năm 2002 và 80,9 tỷ USD năm 2003. Năm 2004, nợ giảm xuống chút ít còn 80,7 tỷ USD (tương đương 31,3% GDP) do chính phủ trả được một ít nợ và một phần do USD mất giá. Các khoản nợ công chủ yếu là từ các chủ nợ cho vay song phương và đa phương. Các chủ nợ đa phương là các thể chế tài chính bao gồm Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á và Ngân hàng Thế giới. Những khoản nợ khu vực công chủ yếu được dùng để tài trợ cho các chương trình phát triển trong hầu hết các khu vực của nền kinh tế, đặc biệt là tăng cường sự quản lý của các tập đoàn công ty. Gần đây, Chính phủ Indonesia mở rộng nguồn vay nợ nước ngoài bằng cách tham gia vào thị trường vốn quốc tế. Tháng 3-2004, Chính phủ phát hành ra các thị trường vốn quốc tế đợt trái phiếu lãi suất 6,75% trị giá 1 tỷ USD – đây là đợt phát hành trái phiếu đầu tiên của Chính phủ ra thị trường vốn quốc tế kể từ sau khủng hoảng tài chính. Chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Indonesia là nhằm phục vụ mục tiêu giảm lạm phát trung hạn đã được Chính phủ đặt ra, đồng thời hỗ trợ cho sự tăng trưởng kinh tế. Năm 2004, lãi suất công cụ tài chính tiếp tục có xu hướng giảm xuống, song ở tốc độ chậm hơn năm 2003 do sự chuyển đổi chính sách tiền tệ từ nới lỏng sang thắt chặt. Để hỗ trợ cho sự ổn định tỷ giá hối đoái, Ngân hàng Trung ương tiến hành quản lý các giao dịch ngoại hối, quản lý cung và cầu ngoại hối và cơ cấu dòng vốn đổ vào, đồng thời tăng cường tính hiệu quả của hệ thống giám sát giao dịch ngoại hối. Triển vọng trung hạn: Các điều kiện kinh tế vĩ mô từ 2004-2009 được dự đoán là thuận lợi nhờ chiến lược và các chính sách phát triển của Chính phủ Indonesia, cũng như việc cải cách thị trường trong nước. Trên cơ sở triển vọng kinh tế toàn cầu và tình hình trong nước, tăng trưởng kinh tế Indonesia được kỳ vọng là sẽ tiếp tục ở mức cao, từ 5,5% năm 2005 lên 7,6% năm 2009 (trung bình 6,6% cho cả giai đoạn). Trong cả giai đoạn trung hạn, khu vực công nghiệp dự kiến tăng 8,6% chủ yếu tập trung trong các ngành chế biến thực phẩm, đồ uống, thuốc lá, giấy và sản phẩm in, phân bón hóa học; khu vực nông nghiệp dự kiến tăng ở mức 3,5% mỗi năm. Tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo ra nhiều việc làm mới cho lực lượng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp được dự đoán sẽ giảm từ 9,7% năm 2005 xuống còn 5,1% năm 2009; dẫn tới tỷ lệ nghèo được kỳ vọng giảm xuống còn 8,2% dân số năm 2009. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, Chính phủ Indonesia cam kết giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô bằng việc tiến hành một loạt các biện pháp cải cách khu vực thu chi ngân sách, khu vực tài chính, cải thiện môi trường đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. 3.Philippin GDP: Tổng sản phẩm trong nước thực tế tăng 6% năm 2004, vượt mức chỉ tiêu là 4,9-5,8%. Trong khi đó, tổng sản phẩm quốc dân tăng 6,2% cao hơn so với chỉ tiêu đề ra (yừ 5,2 đến 6%). Lượng tiền từ nước ngoài tăng mạnh từ 2,6% GDP năm 1990 (1,2 tỷ USD) lên đến 9,9% GDP năm 2004 (8,5 tỷ USD). Nguyên nhân do tất cả các ngành kinh tế đều tăng trưởng, trong đó ngành dịch vụ tiếp tục đóng vai trò chính trong tăng trưởng kinh tế (7,1%). Năm 2005, GDP ước lượng là 451,3 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người là 5.100 USD/năm, tốc độ tăng trưởng là 5,1%. Thương mại: Trong quý 1 năm 2005, xuất khẩu tăng khiêm tốn (3,4%) do giảm xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trung gian, nhập khẩu tăng 3,5% - một bước ngoặt so với 4,5% năm 2003. Sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Philippines là thiết bị điện tử, máy móc và phương tiện vận tải, dụng cụ quang học, quần áo, những sản phẩm từ dừa, trái cây, đậu, những sản phẩm từ kim loại đồng, hóa chất. Thị trường xuất khẩu chính là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hà Lan, Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia. Sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, thiết bị máy móc, chất đốt, động cơ ô tô xe máy, hóa chất, ngũ cốc. Thị trường nhập khẩu chính là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia. Đầu tư: Tổng đầu tư trong nước giảm 7,4% trong quý 1 năm 2005 chủ yếu do giảm đầu tư trong ngành sản xuất máy móc văn phòng, máy móc công nghiệp, thiết bị và linh kiện điện tử. Lạm phát: Tỷ lệ lạm phát là 6% năm 2004, cao hơn so với mức dự tính là từ 4,5 đến 5%. Lạm phát gia tăng chủ yếu do các cú sốc về nguồn cung trong năm. Tỷ lệ lạm phát về giá thực phẩm, đồ uống, thuốc lá tăng từ 2,2% năm 2003 lên 6,2% năm 2004. Năm 2005, tỷ lệ lạm phát tiếp tục tăng ở mức 7,9%. Việc làm: Tổng việc làm tăng thêm 3,2% từ 30,6 triệu việc làm năm 2003 lên đến 31,6 triệu năm 2004. Năm 2004 có thêm 977.000 công nhân có việc làm so với con số 574.000 của năm 2003. Khu vực dịch vụ tạo ra nhiều việc làm nhất (658.000) trong khi số người làm nông giảm đi 1,1%. Số việc làm trong ngành công nghiệp và dịch vụ cũng tăng thêm 2,0% và 4,8%. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp của Philippines ở mức cao, năm 2005 là 12,2%. Cán cân thanh toán: Năm 2004 cán cân thanh toán ghi nhận mức thâm hụt 280 triệu USD, ngược lại so với mức thặng dư 115 triệu USD năm 2003. Tuy nhiên mức thâm hụt này lại thấp hơn con số dự tính 516 triệu USD. Như vậy, cán cân thanh toán hiện tại vẫn thặng dư 2,1 tỷ USD nhờ lượng tiền từ nước ngoài gửi về không ngừng tăng lên do nhu cầu lao động người Philippines có tay nghề và trình độ chuyên môn cao ở nước ngoài ngày càng tăng. Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái trung bình đồng Peso - Dollar Hoa Kỳ là 56,04 năm 2004, tức là đồng peso giảm giá 3,4% so với tỷ giá 52,20 năm 2003. Năm 2005, tỷ giá này là 55,086. Nợ nước ngoài: Tổng nợ nước ngoài giảm đi 4,4% từ 57,4 tỷ USD năm 2003 xuống còn 54,8 tỷ USD năm 2004, chủ yếu là nhờ việc chuyển chủ thể vay tín dụng từ người không thường trú sang người thường trú. Các khoản vay dài hạn và trung hạn lên đến 49,8 tỷ USD, chiếm 90,8% tổng số nợ. Tổng nợ của khu vực công giảm đi 4,1%, tổng nợ của khu vực tư nhân tương tự cũng giảm 5,3% cùng kỳ. Chi tiêu ngân sách: Chính phủ Philippines ghi nhận mức thâm hụt 187,1 tỷ Peso năm 2004, thấp hơn 10,7 tỷ Peso so với dự tính của cả năm là 197,8 tỷ Peso. Tổng thu nhập quốc dân tăng 11,7%, đạt mức 699,8 tỷ Peso nhờ Phòng Thu nhập trong nước và Phòng Thuế quan đẩy mạnh cải cách hành chính từ năm 2002. Cải cách cơ cấu: Chính phủ Philippines nhận thấy cải cách tài chính và cải cách cơ cấu là yếu tố nền tảng trong việc phát triển. Năm 2004 và 2005, một số dự luật và chính sách cải cách đã được thực hiện. Ví dụ: Đạo luật Cộng hòa RA 9334 có hiệu lực vào ngày 1-1-2005 nhằm khắc phục điểm yếu của hệ thống thuế suất hiện tại. Hay Đạo luật RA 9337 có hiệu lực vào ngày 24-5-2005 nhằm mở rộng căn cứ cho thuế giá trị gia tăng (VAT), cũng như điều chỉnh tỷ lệ trong năm 2006 để hệ thống thuế có hiệu quả và năng suất hơn. 4.Malaixia Kinh tế Malaysia đã có những bước chuyển mình. Từ một nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp trong thập niên 60 của thế kỷ XX, ngày nay Malaysia là một nền kinh tế hướng ra xuất khẩu với các ngành chủ đạo là công nghệ cao, các ngành thâm dụng vốn và tri thức. GDP: 65,3 tỷ USD (2004). Năm 2005 tăng lên đến 122 tỷ USD nhờ giá dầu tăng. Năm 2004, tốc độ tăng trưởng đạt 7,1%, cao nhất kể từ năm 2000 nhờ nhu cầu tiêu dùng trong nước và nước ngoài tăng. Thâm hụt ngân sách giảm còn 4,3% GDP năm 2004 (trong khi năm 2003 là 5,3%) thấp hơn so với con số dự kiến là 4,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 5,3%. Chính phủ Malaysia tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng những chính sách cải thiện môi trường kinh doanh. Xuất khẩu: 126,3 tỷ USD (năm 2004), 141,1 tỷ USD (năm 2005), chủ yếu là hàng hóa chế tạo (điện tử, nhựa và hóa chất, sản phẩm gỗ, sắt thép, dầu mỏ). Xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường: Hoa Kỳ (chiếm 19,8%), Singapore (15,6%), Trung Quốc (11,5%), Nhật Bản (8,4%), Thái Lan (4,6%), Hồng Ko6ng của Trung Quốc (4,2%) (năm 2005). Nhập khẩu: 105,2 USD (năm 2004), 118,7% (năm 2005), chủ yếu là hàng hóa dùng phục vụ chế tạo tại chỗ (van và đèn điện tử, các nguyên liệu công nghiệp cơ bản và trung gian, linh kiện, phụ kiện cho thiêt bị vận tải). Nhập khẩu chủ yếu từ các thị trường: Singapore (27,9%), Nhật Bản (11,6%), Trung Quốc (9,7%), Hoa Kỳ (9,6%), Thái Lan (5,2%), Hàn Quốc (4,2%) (năm 2005). Việc làm: Điều kiện thị trường lao động năm 2004 có nhiều ưu đãi với tỷ lệ thất nghiệp giảm nhẹ còn 3,5%. Năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp duy trì ở mức 3,6%. Hoạt động kinh tế trong nước năng động tiếp tục tạo ra nhiều việc làm trong khi năng suất lao động trong ngành chế tạo tăng 15,6%. Lạm phát: Lạm phát tiếp tục thấp mặc dù chỉ số giá tiêu dùng tăng nhẹ từ 1,2% (2003) lên 1,4% (2004) do giá hàng hóa, thuốc lá, đồ uống và giá xăng dầu được điều chỉnh. Tuy vậy, chỉ số giá tiêu dùng vẫn kiểm soát được nhờ điều kiện thị trường lao động tốt, làm thúc đẩy tăng năng suất lao động và mở rộng năng lực sản xuất. Cán cân thanh toán: Khu vực kinh tế nước ngoài tiếp tục tăng trưởng, thể hiện trong việc dự trữ trong nước tăng trong khi nợ nước ngoài vẫn kiểm soát được. Dự trữ ngoại tệ đạt mức kỷ lục 253,5 tỷ ringgit (tương đương 66,7 tỷ USD) vào cuối năm 2004. Mức dự trữ ngoại tệ lại tiếp tục tăng lên 280,2 tỷ ringgit vào cuối tháng 4 năm 2005. Nợ nước ngoài: Cuối năm 2004, nợ nước ngoài tăng chậm lên đến 197,3 tỷ ringgit, tương đương 51,9 tỷ USD ((2003: 49,1 tỷ USD), do khu vực ngân hàng vay ngắn hạn cao hơn. Tỷ lệ nợ ngắn hạn trong tổng nợ còn thấp ở mức 21,8%. Với chính sách quản lý nợ cẩn trọng, tỷ lệ nợ nước ngoài trên tổng thu nhập quốc dân của Malaysia chỉ còn 46,6% (năm 2003 là 50,2%). Tỷ giá hối đoái: Từ tháng 9-1998, đồng ringgit Malaysia đã được xác định tỷ giá chuyển đổi cố định với đồng USD là 3,8 ringgit/1USD. Việc điều chỉnh tỷ giá neo vào một đồng tiền khác tiếp tục đem lại lợi ích cho kinh tế Malaysia nhờ tạo được tính khả báo và ổn định cho thương mại và đầu tư nước ngoài. Chi tiêu ngân sách: Chính phủ liên bang cho biết thâm hụt ngân sách năm 2004 giảm xuống còn 4,3% GDP (năm 2003 là 5,3%). Tình hình tài chính được cải thiện nhờ thu nhập quốc dân khả quan hơn và giải ngân cho chi tiêu phát triển cũng thấp hơn. Thâm hụt ngân sách chủ yếu được bù đắp bởi các nguồn thu trong nước. Chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ vĩ mô năm 2004 tập trung vào việc duy trì sự ổn định và cải thiện khả năng đón nhận rủi ro của nền kinh tế. Trong khi chính phủ tiếp tục củng cố tình hình tài chính, chính sách tiền tệ vẫn hỗ trợ hoạt động kinh tế trong nước và tăng trưởng. Hiệu quả và tác dụng của việc thi hành chính sách tiền tệ được cải thiện hơn nữa khi Ngân hàng Trung ương đưa ra khuôn khổ tỷ lệ lãi suất mới vào tháng 4 năm 2004. Cải cách cơ cấu: Trong 40 năm qua cơ cấu kinh tế Malaysia đã chuyển đổi một cách mạnh mẽ. Trong đó, việc củng cố hệ thống tài chính có bước tiến đáng kể. Danaharta - Công ty Quản lý tài sản Quốc gia - đã phát huy vai trò của mình trong việc thực hiện tái cơ cấu khu vực tài chính sau giai đoạn khủng hoảng tài chính khu vực. Kế hoạch Quy hoạch Khu vực Tài chính (FSMP - 2001) và Quy hoạch Thị trường vốn (CMP - 2004) đã tạo điều kiện hơn cho các thể chế tài chính nước ngoài đồng thời tăng khả năng thanh khoản và hiệu quả sử dụng đồng vốn. 5.Singapore Singapore có nền kinh tế thị trường tự do, chính phủ nắm vai trò chủ đạo. Là một trong những nền kinh tế thịnh vượng nhất thế giới. Singapore trở thành đầu mối giao lưu thương mại quốc tế quan trọng (cảng biển Singapore là một trong những cảng biển trọng tải lớn tấp nập nhất thế giới). Sau giai đoạn chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2001-2003, GDP thực tế năm 2004 của Singapore tăng mức kỷ lục 8%. Chính phủ đang cố gắng hướng đến việc xây dựng một nền kinh tế ít bị tác động bởi những biến động bên ngoài và trở thành trung tâm tài chính và công nghệ cao của Đông Nam Á. GDP: 116,3 tỷ (2004), với GDP bình quân đầu người 27.180
Tài liệu liên quan