Lớp ít học sinh.
•Các học sinh ngồi theo vòng bán
nguyệt, cô giáo là trung tâm
•Bố trí vị trí chỗ ngồi của học sinh
theo bản đồ thính lực của từng em.
•Sau một thời gian phải thay đổi chỗ
ngồi theo sự thay đổi thính lực đồ của
học sinh.
31 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 2245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những điều lưu ý khi giảng dạy trẻ khiếm thính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những điều lưu ý
khi giảng dạy trẻ
khiếm thính
Bố trí lớp học
• Lớp ít học sinh.
• Các học sinh ngồi theo vòng bán
nguyệt, cô giáo là trung tâm
• Bố trí vị trí chỗ ngồi của học sinh
theo bản đồ thính lực của từng em.
• Sau một thời gian phải thay đổi chỗ
ngồi theo sự thay đổi thính lực đồ của
học sinh.
Phòng học
• Cách âm hoặc giảm thiểu tiếng âm
thanh nền, âm dội.
• Bàn, ghế, bảng, kệ sách phải làm
bằng chất liệu không dội âm.
Giáo viên
• Sử dụng ngôn ngữ kí hiệu và khẩu hình
trong quá trình giảng dạy.
• Lớp can thiệp sớm: trẻ chưa có nhiều vốn từ
kí hiệu ngôn ngữ nên cần sử dụng hình ảnh
để cung cấp từ, dạy chậm.
• Thường xuyên nói chuyện tương ứng với
vốn từ trẻ có.
• Trẻ lớn thì cần sử cả ngôn ngữ kí hiệu và
khẩu hình trong giảng dạy.
• Nhiệt tình giúp đỡ phụ huynh học ngôn ngữ
kí hiệu.
• Chỉ nói khi trẻ nhìn mình, tập trung.
• Nói rõ khẩu hình, chậm, lặp lại từ mới, từ
quan trọng hay là với trẻ mới.
• Trình bày câu ngắn gọn, rõ ràng.
• Gọi trẻ nhắc lại câu mình nói để kiểm tra.
• Không vừa viết bảng vừa nói.
• Để trẻ nhìn khẩu hình khi giáo viên nói.
• Kiểm tra máy trợ thính của trẻ bằng cách hỏi
trẻ bất ngờ và kiểm tra máy đầu giờ.
• Quan tâm đến trẻ điếc nặng và điếc sâu.
I. Máy trợ thính là gì?
• Máy trợ thính là một thiết bị điện tử
có khả năng xử lý và khuếch đại âm
thanh nhằm trợ giúp cho những
người có khó khăn khi nghe, khi giao
tiếp.
II. Lịch sử máy trợ thính
• Cách giản dị nhất là ta cụm bàn
tay lại trước vành tai để đón
đưa âm thanh vào ống tai khi ta
muốn nghe tiếng nói từ đằng
xa vọng tới hoặc khi muốn nghe
âm thanh trong đám đông
người.
• Dụng cụ trợ nghe đầu tiên được
sáng chế vào thế kỷ thứ 17,
hình dạng giống như một bông
hoa kèn gọi là ống loa. Đầu
nhỏ của ống để gần lỗ tai người
nghe, đầu to nơi miệng người
nói, như vậy âm thanh sẽ được
tập trung vào tai.
• Phải đợi tới thế kỷ thứ
20 máy trợ thính điện tử
mới được hình thành và
mới thực sự giúp cho
người bị khiếm khuyết
thính giác nghe được,
đặc biệt là khi những tế
bào lông ở tai trong bị
tổn thương.
• Đến thế kỷ 21, máy trợ
thính kỹ thuật số mới
được ra đời và có ý
nghĩa rất lớn với người
khiếm thính.
III. Nguyên tắc hoạt động của
máy trợ thính
• Khuếch đại âm thanh.
• Có nhiều loại máy khác nhau nhưng có
cùng nguyên tắc: một microphone thu âm
thanh, chuyển ra luồng điện, được khuếch
thanh để có thể nghe được. Ngoài
microphone, máy gồm có một bộ phận
khuếch đại, một loa, một bộ phận gắn vào
tai và nút điều chỉnh âm thanh cao thấp.
Các máy đều dùng điện năng của một cục
pin nhỏ.
• Máy có thể đeo sau vành tai hay đặt trong
lỗ tai.
Mang máy trợ thính
Máy trợ thính mới
Cấy
óc
tai
IV. Lợi ích của máy trợ thính
• Máy trợ thính không thể nào thay thế được
đôi tai của con người nhưng máy có thê giúp
trẻ nghe được tiếng động và tập trung chú ý
về hướng phát ra tiếng động
• Đối với trẻ nghe kém chỉ dừng lại ở mức độ
nhẹ hay trung bình, máy trợ thính sẽ giúp trẻ
nghe được trong đa số ngữ cảnh hàng ngày.
• Đối với trẻ mất khả năng nghe hoàn toàn, âm
thanh lọt vào tai có phần méo mó hay “khá
mờ nhạt”, ngay cả khi đang đeo máy, nhưng
cũng có các thủ thuật khác giúp trẻ cải
thiệnđược tình trạng trên, chẳng hạn như đọc
nhép môi hoặc các phương pháp giao tiếp thị
giác khác.
• Trẻ được đeo máy trợ thính sớm kết hợp với
việc học nghe và nói (còn gọi là can thiệp sớm)
sẽ học được ngôn ngữ.
• Máy trợ thính giúp hỗ trợ cho việc nghe hàng
ngày.Chúng đặc biệt giúp nghe rõ ràng hơn khi
giao tiếp
• Dùng máy trợ thính cho khá đơn giản và linh
hoạt, không tốn kém so với cấy điện cực đường
xương (BAHA) và cấy ốc tai.
• Trẻ có cơ hội phát triển ngôn ngữ, vốn từ và
nhận thức về môi trường tự nhiên, xã hội một
cách bình thường.
• Tạo điều kiện để trẻ hoà nhập với cuộc sống
bình thường, với xu hướng phát triển chung của
xã hội.
• Có thể nghe nhạc, xem phim và trò chuyện với
mọi người xung quanh
• Từ đó trẻ sẽ phát triển tâm lý, tình cảm tốt
• Sử dụng máy trợ thính kịp thời và đúng phương
pháp chẳng những giúp trẻ có được cuộc sống
bình thường như những trẻ khác mà còn mang
lại cho trẻ một tương lai tốt đẹp sau này.
V. Chăm sóc máy trợ thính
• Phải bảo trì máy trợ thính để có thể nghe
tốt nhất và bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh.
• Cần thay pin thường xuyên, để tránh
trường hợp máy bất ngờ hết pin.
• Tắt máy khi không sử dụng. Nếu không
dùng máy trong một thời gian dài cần lấy
pin ra, tránh chỗ để pin dơ có thể làm máy
trợ thính làm việc không chính xác.
• Không đeo máy trợ thính khi tắm, khi đi
bơi hay khi sử dụng máy sấy tóc, chai xịt
tóc hoặc bất cứ những dụng cụ phun xịt
nào khác.
• Làm sạch ráy tai trên máy trợ thính. Ráy
tai có thể gây ra trục trặc tạm thời cho
máy hoặc thậm chí làm hư máy luôn.
• Đi bác sĩ khi cần làm sạch ống tai.
ĐỌC HÌNH MÔI
Giao tiếp có vai trò quan trọng hoạt động
nhận thức của con người.Do mất hoặc
suy giảm khả năng nghe nên trẻ khiếm
thính rất hạn chế giao tiếp bằng ngôn ngữ
nói, nhưng trẻ có khả năng sử dụng nhiều
phương tiện giao tiếp khác nhau để đáp
ứng nhu cầu giao tiếp của mình. Vì vậy,
đọc hình môi có vai trò rất quan trọng
trong quá trình giao tiếp với trẻ khiếm
thính.
ĐẶC ĐIỂM TIẾNG NÓI CỦA TRẺ
KHIẾM THÍNH.
Giọng: phần lớn trẻ khiếm thính phát âm
với giọng không bình thường, khó nghe.
Trẻ hay nói giọng mũi, giọng cao, giọng
yếu, giọng khàn Chất lượng giọng nói
của trẻ khiếm thính phụ thuộc vào mức
độ giảm thính lực, nếu trẻ không được
đeo máy trợ thính và can thiệp sớm.
Từ vựng: vốn từ rất nghèo nàn, ít hơn
nhiều so với trẻ bình thường cùng lứa
tuổi
Ngữ pháp: trẻ khiếm thính thường nói không
theo ngữ pháp tiếng Việt mà thường nói
theo tư duy của mình, theo ý hiểu của mình.
Tạo cho người nghe khó đoán được nội
dung của câu nói.
Ví dụ: “Ăn cơm _ tôi” – tôi ăn cơm.
Phát âm: trẻ thường mắc trong giai đoạn
hình thành ngôn ngữ, khoảng từ 2 đến 3
tuổi. Phần lớn trẻ phát âm thường sai phụ
âm.
ĐẶC ĐIỂM TIẾNG NÓI CỦA TRẺ
KHIẾM THÍNH (tt)
Thanh điệu: hầu hết trẻ điếc phát
âm không đúng thanh điệu của tiếng
Việt, thường trẻ chỉ sử dụng 3 thanh
như không - sắc - huyền
Ngữ điệu: trẻ khiếm thính hay nói
rời rạc, ngát từng tiếng một, lên
xuống tuỳ hứng.
ĐẶC ĐIỂM TIẾNG NÓI CỦA TRẺ
KHIẾM THÍNH (tt)
KHÁI NIỆM
• Đọc hình miệng là cách hiểu tiếng nói thông
qua những chuyển động của cơ quan phát âm
khi nói.
• Đọc hình miệng không phải là đọc hình môi của
từng âm một mà là đọc hình miệng của một
cụm từ, một câu nói. Mặc dù nghe không thấy
hoặc không rõ âm thanh nhưng qua hệ thống
hình ảnh này trẻ có thể “đoán” được nội dung
cơ bản của tiếng nói khi gặp lại ở lần sau. Sự
ghi nhớ này rất tốt cho trẻ khiếm thính
VAI TRÒ
Đọc hình miệng là cách hỗ trợ để trẻ
có khả năng tiếp thu thông tin từ
người đối thoại. ở trẻ khiếm thính,
nếu được rèn kỹ năng đọc hình
miệng thì khả năng tiếp thu thông tin
sẽ tốt hơn. Nếu trẻ được học từ 4
đến 5 năm thì có thể tiếp thu tiếng nói
bằng đọc hình miệng đạt 60-70%
lượng thông tin.
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG ĐỌC HÌNH MÔI
Đây là việc làm thường xuyên
của giáo viên, được thực hiện
trong tất cả các môn học,
trong sinh hoạt hằng ngày, đặc
biệt trong khi giao tiếp với trẻ.
Nguyên tắc đọc khẩu hình miệng
• Với việc sử dụng máy
trợ thính thì việc đọc
môi là rất cần thiết.
khi thính giác của trẻ
có vấn đề thì thị giác
là con đường tiếp
nhận thông tin của trẻ
rất quan trọng thông
qua việc đọc thônng
tin từ khuân hình
miệng của người
khác.
Nguyên tắc đọc khuôn
hình miệng
• Học sinh khiếm thính tập chung nhìn
vào khuân hình miệng của giáo viên.
• Giáo viên không nói với học sinh khi
đang quay lưng về phía các em như:
vừa nói vừa viết, quay mặt vào bảng
khi viết.
• Để sách trước ngực sao cho không
để sách che khuất khuân hình miệng
của giáo viên.
• Nhìn thẳng vào người khiếm thính, do mất khả năng
nghe nên sự tiếp xúc thị giác đối với trẻ là rất quan
trọng. Theo quy luật bù trừ khi người khiếm thính
mất hoặc thiếu hụt đi giác quan nghe thì giác quan
thị giác phải tăng cường cao độ hơn so với trẻ bình
thường
• Giáo viên là người trực tiếp dạy trẻ phải nói chậm và
rõ, ngôn ngữ cô đọng súc tích, khi nói thì phải nói
dứt khoát không cường điệu hình miệng. Bởi việc
đọc môi không dễ dàng. Chỉ có khoảng 25% - 30%
thấy được lời nói đọc trên môi và cả những người có
khả năng đọc hình miệng khá cũng không đọc được
tất cả những điều người ta nói.
• Khuyến khích trẻ nói nói cho ta biết
khi các em chưa hiểu bài và chưa
hiểu phần nào?...
• Tôn trọng ý kiền của từng cá thể
học sinh.
• Giáo viên nên nói chuyện nghiều
với trẻ để tăng khả năng giao tiếp
và vốn từ của trẻ. Khi nói chuyện
với trẻ cần phải biết phối hợp các
giác quan với nhau sử dụng ngôn
ngữ cơ thể qua nét mặt củ chỉ điệu
bộ.
• Trong khi giảng bài nên hỏi lại trẻ xem trẻ có
nắm bắt được bài không?
• Gây sự thu hút với trẻ khiếm thính, lôi kéo sự
chú ý của học sinh khiếm thính : vỗ nhẹ tay,
khiều vai, cử chỉ nét mặt điệu bộ, sử dụng phi
ngôn ngữ,
• Ngồi đối diện với học sinh khiếm thính. Ngồi
phía bên tai nghe rõ hơn( nếu có một tai nghe rõ
hơn).
• Quan sát hình miệng, vẽ diễn cảm trên khuôn
mặt và các cử chỉ điệ bộ kèm theo lời nói.
• Nói lặp đi lặp lại hay thay đổi cách nói.
• Sử dụng khuân hình miệng cùng các hình thức
giao tiếp bằng tay với trẻ như:
Ngôn ngữ ký hiệu.
Ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ.
Chữ cái ngón tay
•Khi sử dụng thuần thục giao tiếp bằng tay thì nó
sẽ giúp trẻ tiếp nhận thông tin tốt hơn, nhanh
nhạy hơn, nắm bắt tâm lý của người đối diện tốt
hơn đáp ứng nhu cầu hướng tới mục tiêu dạy trẻ
khiếm thính: phát triển khả năng giao tiếp của trẻ
bằng nhiều loại:( tiếng nói, chữ viết,chữ cái ngón
tay, đọc khuân hình miệng người đối diện).