Những khác biệt giữa luật thương mại Việt Nam và các chế định pháp luật thương mại các nước

1.1.SỰ PHÂN BIỆT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT DÂN SỰ, LUẬT THƯƠNG MẠI, VÀ LUẬT KINH TẾ Sự xuất hiện của luật kinh tế với tính cách là một ngành luật độc lập, theo quan niệm của các luật gia ở Việt Nam, đã càng làm phức tạp thêm cho sự phân biệt và mối quan hệ giữa luật thương mại và luật dân sự mà các luật gia trên thế giới đã dày công nghiên cứu. Vấn đề phân chia các ngành luật được coi là một công việc rất cần thiết trong khoa học pháp lý không chỉ được đặt ra với các nước theo Civil Law, Sovietique Law mà còn được đặt ra một cách rất nghiêm túc với các nước theo Common Law và các hệ thống pháp luật khác. Tuy nhiên việc phân chia các ngành luật hay phân loại pháp luật là một vấn đề phức tạp, tế nhị và gây nhiều tranh luận. Ngay Nhật Bản- một nước phát triển đứng hàng thứ hai thế giới đã hết sức chú ý tới việc xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại, nhưng có thể nói cho tới nay "chưa có quan điểm thống nhất về vấn đề phân loại các ngành luật" 1.

pdf65 trang | Chia sẻ: hoang16 | Lượt xem: 723 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những khác biệt giữa luật thương mại Việt Nam và các chế định pháp luật thương mại các nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ CÁC CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI CÁC NƯỚC Người thực hiện : PGS.TS. Nguyễn Như Phát TS. Ngô Huy Cương PHẦN I SO SÁNH NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI 1.1.SỰ PHÂN BIỆT VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT DÂN SỰ, LUẬT THƯƠNG MẠI, VÀ LUẬT KINH TẾ Sự xuất hiện của luật kinh tế với tính cách là một ngành luật độc lập, theo quan niệm của các luật gia ở Việt Nam, đã càng làm phức tạp thêm cho sự phân biệt và mối quan hệ giữa luật thương mại và luật dân sự mà các luật gia trên thế giới đã dày công nghiên cứu. Vấn đề phân chia các ngành luật được coi là một công việc rất cần thiết trong khoa học pháp lý không chỉ được đặt ra với các nước theo Civil Law, Sovietique Law mà còn được đặt ra một cách rất nghiêm túc với các nước theo Common Law và các hệ thống pháp luật khác. Tuy nhiên việc phân chia các ngành luật hay phân loại pháp luật là một vấn đề phức tạp, tế nhị và gây nhiều tranh luận. Ngay Nhật Bản- một nước phát triển đứng hàng thứ hai thế giới đã hết sức chú ý tới việc xây dựng một hệ thống pháp luật hiện đại, nhưng có thể nói cho tới nay "chưa có quan điểm thống nhất về vấn đề phân loại các ngành luật" 1. 1. Nhằm mục đích của đề tài này, chúng tôi cố gắng tiếp cận vấn đề phân chia các ngành luật hay phân loại pháp luật một cách ngắn gọn nhất. Nhưng trước tiên nên bắt đầu từ một đặc thù của Việt Nam với ngành luật kinh tế. Theo giáo sư Tsuneo Inako, thuật ngữ luật kinh tế có lẽ xuất hiện và có chỗ đứng ở Nhật Bản dưới chủ nghĩa tư bản độc quyền, mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh việc vạch ra phạm vi của luật kinh tế 2. Tại đây ông nhấn mạnh tới tính chất ra đời muộn mằn của luật kinh tế so với luật thương mại- đặc trưng của kinh tế thị trường. Ở phía khác, chúng tôi đã khẳng định khái niệm luật kinh tế hay lĩnh vực luật kinh tế đã ra đời trước khi có sự hiện diện của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Nhưng "luật kinh tế khởi sinh trong khu vực luật công" và "cho đến nay, các học giả tư sản vẫn chưa có quan niệm thống nhất về luật kinh tế khi đi tìm biên giới về đối tượng điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này"3. Luật thực định ở nhiều quốc gia có các quy định về kinh tế, chẳng hạn như ở Hoa kỳ trong các đạo luật về chuyên ngành thường có các quy định với tên gọi là "Economic Regulations". Lưu ý rằng các luật mà có các quy định như vậy thường là các luật phức hợp mà ở trong đó tồn tại cả các quy tắc của cả luật công và luật tư (như luật hàng không, luật hàng hải, luật bưu chính- viễn thông...). 1. Tsuneo Inako- Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản- NXB Khoa học xã hội- Hà nội 1993- tr.195-196. 2. Tsuneo Inako- Tìm hiểu pháp luật Nhật Bản- NXB Khoa học xã hội- Hà nội-1993- Tr.196. 3 PGS. TS. Nguyễn Như Phát- Lý luận chung về luật kinh tế- Giáo trình luật kinh tế Việt nam- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội-1997-tr5-6. 2 Các quy định về kinh tế này biểu hiện sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào quá trình kinh tế- xã hội làm thay đổi tình trạng pháp lý của chủ thể, hay nói cách khác, làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp mà chủ thể có thể được hưởng quyền lợi hay bị cắt giảm, triệt tiêu về mặt lợi ích do sự can thiệp này. Các quy định đó không chỉ là các quy định nhằm chống độc quyền, bảo vệ người tiêu dùng, duy trì trật tự công cộng mà còn nhằm thực thi các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích kinh tế của một nhóm công dân hay một số địa phương nhất định. Quốc gia nào cũng có những vấn đề riêng về kinh tế có tính chất bảo đảm sự trật tự, ổn định chung của cộng đồng cần phải giải quyết, mặc dù có hạn chế quyền lợi tư. Các quan hệ này phản ánh vào trong hệ thống pháp luật tạo ra những đặc trưng riêng mà không dễ gì những ngành luật truyền thống bao quát được. Rõ ràng là khái niệm luật kinh tế không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa xã hội, nhưng ngành luật này tồn tại ở các nước XHCN cũ lại trở thành một đặc trưng riêng có của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ, quan liêu bao cấp dựa trên chế độ sở hữu XHCN mà trong đó sở hữu toàn dân hay sở hữu nhà nước là bao trùm và thống soái, ngành luật kinh tế này điều chỉnh các quan hệ xã hội mang hai yếu tố là yếu tố tổ chức- kế hoạch và yếu tố tài sản với hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp mệnh lệnh, phục tùng và phương pháp thoả thuận. Ở đây, cũng cần lưu ý rằng sự thoả thuận giữa các đơn vị kinh tế cơ sở của chủ nghĩa xã hội không còn mang đúng ý nghĩa của bản thân nó nữa vì thực chất nguyên tắc tự do khế ước đã bị thủ tiêu. Các đơn vị này xây dựng hợp đồng kinh tế trên cơ sở chỉ tiêu pháp lệnh được phân bổ từ một trung tâm kế hoạch hoá của quốc gia. Vì thế khi khảo sát luật kinh tế truyền thống người ta thường thấy có các chế định cơ bản như: 1) Xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (bao gồm cả xí nghiệp liên hợp và liên hiệp các xí nghiệp) nơi thực hiện sản xuất trực tiếp ra hàng hoá và dịch vụ theo chỉ tiêu pháp lệnh. Việc tổ chức và chỉ đạo hoạt động của các xí nghiệp này bằng các mệnh lệnh hành chính; 2) Chế định kế hoạch hoá xác định vai trò quản lý kinh tế của nhà nước XHCN, các nguyên tắc và phương pháp tác động vào các quá trình kinh tế- xã hội theo kiểu XHCN; 3) Chế định hoạch toán kinh doanh XHCN xác định vai trò, vị trí và các nguyên tắc hoạch toán, có đề cập phần nào tới tính chủ động, sáng tạo không nguyên nghĩa của các đơn vị kinh tế cơ sở. Chế định này tồn tại là do thực tiễn khách quan của nền sản xuất mà buộc nhà nước XHCN phải chấp nhận, nhưng được bênh vực và giải thích bằng học thuyết "quyền quản lý nghiệp vụ" của các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh; 4) Chế định về hợp đồng kinh tế ấn định các chủng loại hợp đồng với nhiều điều kiện bắt buộc, nguyên tắc ký kết, đăng ký, thực hiện, thanh lý hợp đồng và quy định các mức phạt cụ thể khi có vi phạm hợp đồng.... Nói cho đúng, đây cũng là sự diễn dịch các mệnh lệnh hành chính tồn tại trong các hình thức khác nhau đối với các quan hệ kinh tế cụ thể; 5) Chế định về trọng tài kinh tế xác định vai trò, vị trí, chức năng, nhiệmvụ, quyền hạn của cơ quan trọng tài kinh tế nằm trong ngành hành pháp để giải quyết một số công việc chính như đăng ký hợp đồng kinh tế, xét xử khi có vi phạm hợp đồng, kiểm tra việc thực hiện hợp đồng... Các luật gia XHCN cũ cho rằng đây cũng là các biện pháp quản lý kinh tế. Vậy có thể nói cơ sở kinh tế, xã hội để hình thành một ngành luật kinh tế như 3 vậy không còn tồn tại nữa. Năm 1989, khi xây dựng Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế, những người soạn thảo bị giằng xé giữa quan niệm cũ về luật kinh tế mà điều kiện kinh tế, xã hội cơ sở của nó đang bị phá vỡ và khuynh hướng mới về kinh tế đang trỗi dậy với các biểu hiện về bỏ chỉ tiêu pháp lệnh và cho quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh. Sự giằng xé này đã được phản ánh vào Pháp lệnh là giữa các khuynh hướng mới, còn giữ lại nhiều quy định kiểu cũ như áp đặt quá nhiều điều khoản bắt buộc cho hợp đồng, ấn định mức phạt vi phạm hợp đồng cụ thể... Qua đó chúng ta có thể thấy rằng luật thực định của Việt Nam vẫn còn rơi rớt lại nhiều quan niệm cũ, nên càng làm rắc rối thêm cho việc phân định các ngành luật nói chung và luật thương mại với luật kinh tế nói riêng. Nhưng có một điều cần phải khẳng định rằng quan niệm cũ về luật kinh tế không còn và không thể tồn tại trong điều kiện hiện nay. Điều này khẳng định vị trí, vai trò và ý nghĩa của luật thương mại. Song cũng không quên rằng có một hệ thống các quy định pháp luật về kinh tế mà có thể gọi là lĩnh vực luật kinh tế đã được cách tân nằm trong ngành công pháp. 2- Theo nghĩa truyền thống, luật dân sự là một ngành luật xác định các giới hạn của quyền lợi tư. Nói một cách đơn giản, nó bao gồm các vấn đề liên quan đến quyền lợi tư và chủ thể của quyền lợi. Những quyền lợi này phát sinh trong giao lưu thường ngày. Có nghĩa là bất kỳ thể nhân hoặc pháp nhân nào cũng có thể tham gia các giao dịch dân sự nhằm thoả mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần. Nội dung của ngành luật dân sự được thể hiện chủ yếu ở 02 sơ đồ A và B mà sơ đồ B là tiếp nối của sơ đồ A. Tiếp đó là sơ đồ C nói về các nội dung cơ bản của luật thương mại. 4 Nội dung củaluật dân sự Sơ đồ A Quyền lợi tư Chủ thể của quyền lợi tư Xác lập quyền lợi Thực hiện quyền lợi Thực hiện theo ý chí của chủ thể Quyền bảo vệ và yêu cầu bảo vệ khi có vi phạm Thể nhân Pháp nhân Bình quyền dân sự Quyề n về nhân cách Tự do dân sự An toàn thân thể An toàn tinh thần Tự do thân thể Tự do tinh thần Tự do nghề nghiệp Tự do đi lại Tự do hoạt động Tự do chỗ ở (Tiếp sơ đồ B) Bản tính Phân loại 1.2 1.1 2 1 2.1 2..2 5 5 XÁC LẬP QUYỀN LỢI Bất động sản bởi lý do có đối tượng trên bất động sản Bất động sản do luật định Sơ đồ B Quyền lợi chủ quan Căn cứ phát sinh Truyền thống Hiện đại Hành vi pháp lý Sự kiện pháp lý Chuẩn hợp đồng Nghĩa vụ pháp lý Chuẩn vi phạm Vi phạm Hợp đồng Sản nghiệp quyền Ngoại sản nghiệp quyền Nhân quyền Quyền hôn nhân và gia đình Quyền đối nhân Quyền đối vật Sản nghiệp Nghĩa vụ chuyển giao Nghĩa vụ hành động Các loại hợp đồng Nghĩa vụ không hành động Nghĩa vụ tự nhiên Tích sản Tiêu sản Vật Các quyền lợi về vật Vật quyền chính yếu Vật quyền phụ thuộc Động sản Bất động sản Động sản do bản chất Động sản do luật định Bất động sản do bản chất Bất động sản do dụng đích 1.1.1 1.1.2 1.1.1.1 1.1.1.2 1.1.1.1.1 1.1.1.1.2 1.1.1.1.3 6 6 Sơ đồ C NỘI DUNG CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI Chủ thể Hành vi thương mại Thể nhân Công ty Dự phần Pháp nhân Thương nhân nước ngoài Công ty Hợp tư cổ phần Công ty Cổ phần Công ty TNHH Công ty Hợp tư đơn thường Công ty Hợp danh Hợp tác xã Khái niệm Các giao dịch cụ thể Các dịch vụ Hành vi thương mại do bản chất Hành vi thương mại phụ thuộc Giao dịch hàng hải Phá sản Môi giới Đại lý Bảo hiểm Ngân hàng Thuê mua Mua bán Thương phiếu Tập đoàn Luật dân sự Hành vi dân sự phụ thuộc Hành vi dân sự Khai thác mỏ Công ty Thực tế Công ty được thành lập trên 7 7 Ranh giới của luật dân sự và luật thương mại thường hay được tranh luận trong khu vực của nhánh số 1 và số 2.1 của sơ đồ A. Nhưng trong nhánh số 1 thì phân nhánh số 1.1.1.1.2 là khu vực của luật tài sản, ít có liên quan tới luật thương mại, trừ trường hợp cầm cố thương mại và hợp đồng thuê- mua. Về tính chất và nguồn gốc phát sinh thì luật thương mại là luật của các thương nhân được hình thành từ các quy tắc nghề nghiệp của họ từ thời kỳ Trung Cổ ở Châu Âu. Nên chủ thể thông thường của luật thương mại là các thương nhân lấy hành vi thương mại làm nghề nghiệp của mình. Các giao dịch mà luật thương mại điều chỉnh là các giao dịch nhằm mục tiêu lợi nhuận và được thương nhân sử dụng thường xuyên như nghề nghiệp của họ. Luật thương mại là con đường riêng mà các nhà làm luật ở Việt Nam nên thừa nhận bởi các đặc thù của hoạt động thương mại 4. Luật dân sự liên quan tới đời sống thường ngày mang nặng chủ nghĩa hình thức, đầy chất lý luận, khái quát chung hầu hết đời sống và hoạt động của con người. Còn luật thương mại không coi trọng hình thức, đề cao tính hiệu quả, nhanh chóng và giản đơn của giao dịch. Luật thương mại được áp dụng khi người ta thực hành nghề nghiệp thương mại, có nghĩa ở một giai đoạn đặc biệt trong cuộc sống thường ngày. Luật thương mại mang tính quốc tế rộng lớn hơn luật dân sự với tư cách là một ngành luật gắn bó rất chặt chẽ với truyền thống văn hoá- xã hội của mỗi quốc gia. Mặc dù đều là luật tư, mang phương pháp điều chỉnh đặc thù của luật tư, nhưng do hoạt động thương mại có liên quan nhiều tới trật tự công cộng và đời sống chung của cộng đồng, nên nhà nước can thiệp nhiều và sâu hơn vào các quan hệ này làm cho các thương nhân phải chịu các quy chế ngặt nghèo hơn. Ví dụ muốn tham gia các giao dịch thương mại thường xuyên thì cần phải tổ chức thành một hình thức nhất định và phải được phép tiến hành các giao dịch nhất định, khác với thể nhân và pháp nhân rất thanh thản, đầy tự tin và được bảo hộ khi tham gia các giao dịch dân sự theo ý chí của họ. Do nguồn gốc hình thành các quy tắc khác nhau, chủ thể có đặc điểm khác nhau, phương pháp thực hiện quyền lợi khác nhau, phương pháp nhà nước can thiệp vào quan hệ khác nhau, nên luật thương mại và luật dân sự là hai ngành luật khác biệt, nhưng có mối quan hệ hết sức chặt chẽ và bổ sung cho nhau. Thực tiễn nhiều nước trên thế giới kể cả Việt Nam từ xưa đến nay đã pháp điển hoá hai ngành luật này trong các đạo luật khác nhau. Đặc biệt ở Việt Nam có sự phân biệt giữa luật kinh tế và luật dân sự, nay luật thương mại đã thay thế cho luật kinh tế thì việc phân biệt với luật dân sự vẫn giữ nguyên ý nghiã của nó. Tuy nhiên, không được quên rằng luật dân sự xây dựng nền tảng đầy chất lý luận cho hệ thống luật tư. 1.2. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI 4.GS.TSKH. Đào Trí Úc- Một số vấn đề cơ bản về Bộ luật Dân sự Việt Nam- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số chuyên đề năm 1997. 8 8 Tìm hiểu lịch sử phát sinh và phát triển của luật thương mại là một vấn đề quan trọng để có thể hiểu được mối liên hệ của nó với các ngành luật khác. Từ đó, xác định ranh giới của luật thương mại. Dĩ nhiên ranh giới giữa ngành luật này với ngành luật khác chỉ có ý nghĩa tương đối. Song xác định được chúng sẽ làm đơn giản hơn cho việc nghiên cứu và các công việc thực tiễn pháp lý khác. * Ở các nước Civil Law Luật thương mại không thể tự nhiên xuất hiện mà chúng chỉ có thể được hình thành khi có vài điều kiện lịch sử nhất định. Giáo sư Roger Houin và Giáo sư Michel Pédamon cho rằng các yếu tố hợp nhất lại để thành điều kiện lịch sử cho việc ra đời của luật thương mại là: khi có một khối lượng nhất định về sản xuất và trao đổi, khi quan hệ quốc tế trở nên sôi động và khi có một sự tự do vừa đủ cho các thương gia 5. Vì vậy, người ta thường thấy rằng nhiều chế định của luật thương mại giống với các hợp đồng về ngân hàng, vấn đề thương phiếu, phá sản... vào thời kỳ Trung cổ. Các quy tắc thương mại được hình thành ở Miền Bắc Cộng hoà Italy (các xứ Venise, Gênes, Pise) nơi mà vào thế kỷ thứ XII và XIII thương mại và hàng hải rất cường thịnh. Ở nơi đó, các thương gia đã nắm được quyền chính trị. Họ đã soạn thảo và ghi vào điều lệ của thành phố các quy tắc phát sinh từ thực tiễn thương mại của mình. Cùng thời, ở Châu Âu đã hình thành một trung tâm thương mại thứ hai trong các thành phố của Flandre như Bruges, Anwers, Amsterdam nơi mà phát triển nghề sản xuất len và vải theo kiểu thủ công. Các quy tắc thương mại cũng được hình thành trong các nơi này. Người ta nhận thấy các chế định của luật thương mại xuất hiện ở khắp nơi trong các hội chợ lớn ở miền Tây như hội chợ ở Champagne mở 6 lần trong một năm tại Provins, Troyes, Bar-sur-Aube để phục vụ cho các trung tâm phân phối hàng hoá khác ở Châu Âu và đóng vai trò trong việc hình thành những luồng trao đổi lớn. Các chế định của luật thương mại đã phát triển thông qua các hội chợ trong tất cả các nước theo đạo Cơ đốc. Vì vậy, các quy tắc của nó mang tính quốc tế khác với luật dân sự mang nặng tính hình thức. Đòi hỏi về sự nhanh chóng của các giao dịch và tăng cường tín dụng đã trở thành yếu tố quan trọng của luật thương mại. Nhu cầu của các thương gia là tới hội chợ và phải tìm thấy một số lợi ích và đặc quyền nào đó, nên người ta có câu: "La paix des foires" (tạm dịch là sự an bình của hội chợ). Điều đó có nghĩa là sự bảo đảm tới đó và quay về; tài phán đặc biệt và nhanh chóng; bảo đảm công việc kết thúc; cách thức thi hành ngắn gọn...6. Khi sự trao đổi trở nên thường xuyên hơn thì vai trò của hội chợ bị giảm sút. Khoảng đầu thế kỷ XIII, hoạt động thương mại chuyển dần từ ngoại ô vào thành phố để quyết định sự phát triển của văn minh đô thị. Các thương gia và thợ 5. Roger Houin- Michel Pédamon - Droit Commercial - Dalloz 11, rue Soufflot, 75240 Paris Cedex 05- 1990- p..2. 6. Roger Houin- Michel Pédamon- Droit Commercial- Dalloz 11, rue Soufflot, 75240 Paris Cedex 05- 1990- p..2. 9 9 thủ công đã tự nhóm họp thành các phường hội, cộng đồng nghề nghiệp, các ban quản lý phường hội và họ đã thiết lập nên các quy chế phường hội. Trong khoảng thời gian từ cuối thời kỳ Trung cổ tới cuối thế kỷ XVIII có nhiều yếu tố dẫn đến làm đổi hướng sự phát triển của luật thương mại như: sự sản xuất ra vàng tìm được từ Châu Mỹ gửi về, sự phát triển thương mại trên bờ Đại Tây Dương, sự mở rộng của sản xuất. Đó là các yếu tố kinh tế tác động đến các yếu tố chính trị cùng thay đổi theo như sự củng cố của chế độ quân chủ và thể chế của một quốc gia hiện đại đòi hỏi có luật lệ riêng. Vì thế nhiều Đạo dụ được các nhà vua ban hành mà trong đó, ở Pháp, có Chỉ dụ (Edit) năm 1563 quy định quyền xét xử của thẩm phán và Tổng tài ở Paris, đồng thời điều chỉnh thẩm quyền của họ. Trong lời nói đầu, Nhà vua Charles IX tuyên bố rằng ông ta trả lại đơn của các thương gia từ Paris gửi tới ông ta để công khai và giảm bớt chi phí và giảm bớt sự khác biệt giữa các thương gia mà họ phải cùng nhau thương lượng một cách đầy thiện chí, không bị ràng buộc vào sự tinh tế của luật hay Đạo dụ. Đây chính là các nguyên tắc cơ bản của luật thương mại. Năm 1673, một Đạo dụ ra đời được gọi là Bộ luật Savary theo sáng kiến của Colbert dự định về một nền pháp chế toàn cầu trong lĩnh vực luật tư, tiếp đó là Đạo dụ năm 1681 về luật hàng hải. Hai Đạo dụ này đánh dấu sự ra đời của luật thương mại với tư cách là một ngành luật 7. Các văn bản này đã đặt ra một số quy tắc chung về nghề thương mại, điều chỉnh hối phiếu và thương hội (sociétés commerciales), giải quyết ngắn gọn vấn đề phá sản và vỡ nợ, xác định thẩm quyền tài phán của quan toà và một số quy định liên quan tới chủ quản và phường hội. Trong các Đạo luật về luật tư này không có sự phân biệt giữa thương gia, thợ thủ công, người làm nghề (Marchands, Artisans, Gens de métier). Các thương gia được hưởng và phục tùng một chế độ tự trị. Ở Pháp cuối thế kỷ XVIII, đời sống thương mại thoát khỏi thường luật thống nhất (Droit Commun). Cách mạng tư sản đã làm đảo lộn phạm vi pháp lý của hoạt động thương mại. Nói cho đúng, nó đã mở rộng hay giải phóng hoạt động thương mại và công nghiệp. Luật ngày 14-17/6/1791 (gọi là luật Le Chapelier) đã bãi bỏ phường hội, quyền tự chủ và ban quản lý phường hội, đồng thời đưa ra nguyên tắc giải phóng thương mại và công nghiệp, cũng như giải phóng lao động. Luật ngày 2-17/3/1791 (gọi là luật Allarde) đã dự liệu về việc cấp chứng chỉ và trả lệ phí cho hoạt động thương mại. Năm 1801, một uỷ ban gồm 7 thành viên bao gồm các thẩm phán và thương gia chuẩn bị dự thảo Bộ luật Thương mại Pháp và năm 1807 Bộ luật ra đời có hiệu lực từ ngày 1/1/1808 bao gồm 608 điều được chia thành 4 quyển: Về thương mại tổng quát (Du Commerce en Général); Về thương mại hàng hải (Du Commerce maritime); Về phá sản và vỡ nợ (Des faillite et des banqueroutes); Về tài phán thương mại (De la juridiction commerciale). Đây là Bộ luật thương mại đầu tiên trên thế giới. Nước Đức vào cuối thế kỷ thứ 19 đã xây dựng hai bộ luật : 1896-1900 Bộ luật Dân sự ( BGB ) và 1897 Bộ luật Thương mại ( HGB ). Luật thương mại đã được nhiều luật gia quan niệm có một con đường hình thành riêng. Nhưng cũng có luật 7. GS.TSKH. Đào Trí Úc- Một số vấn đề cơ bản về Bộ luật dân sự Việt nam- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số chuyên đề về luật bầu cử, về Bộ luật Dân sự, các luật về thuế năm 1997. 10 10 gia cho rằng nó được hình thành trên nền tảng của luật dân sự8. René David khẳng định luật thương mại hay các qui tắc tập quán của các thương nhân