Bài học nhiều nước cho thấy,giá phải trả không áp dụng và thực thi luật môi trường là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận.Tác nhân thường không gánh chịu hậu quả mà là xã hội,người dân và thế hệ sau gánh chịu.
Giá tri của một thương hiệu và hình ảnh của thương hiệu qua sự nhận thức và cảm nhận của người tiêu dùng sẽ chĩ tăng khi thương hiêu đó có những hoạt động xã hội do công ty chủ trương đề ra và thực hiện.Có nhiều nghiên cứu cho thấy những hoạt động như vậy có hiệu quả nhiều trong lĩnh vực tiếp thị quản cáo cho công ty hơn các phương pháp tiếp thị truyền thống cổ điển.Người tiêu thụ hiện nay ở một số nước đã phát triển bắt đầu có khuynh hướng để ý đến vấn đề môi trường,môi sinh tác dộng qua các sản phẩm hau dịch vụ kinh tế.Họ sẵn sàng bỏ ra thêm hay trả giá cao hơn cho các sản phẩm,dịch vụ ít ảnh hưởng đến môi trường mang hiệu quả “sản phẩm xanh”.
Ở Việt Nam thực trạng hiện tại là ít có doanh nghiệp có trách nhiệm về môi trường và lợi ích xã hội trong chính sách và tôn chỉ của công ty.Sự xuất hiện của những “làng ung thư”
Liên tục trong thời gian gần đây cho thấy,các giá phải trả cho ô nhiễm môi trường là quá đắt.Đứng đầu là ô nhiễm môi trường nước do các doanh nghiệp sản xuất đã thải chất thải không được xử lý tiêu chuẩn.Theo ông Trần Hồng Hà,Cục trưởng Cục Bảo vệ môi trường-Bộ TN&MT,cho biết tính đến tháng 6/2006,Việt Nam co 134 khu Công Nghiệp,khu chế xuất,trong đó chỉ có 33 khu đã có công trình xử lý nước thải tập trung.Các khu Công Nghiệp chế xuất này thải ra hàng triệu tấn rác thải mỗi năm,trong do01 có hàng vạn tấn chất thải nguy hại.
Theo tin tức gần đây,trong số 12 khu Công nghiệp ở Tp.HCM chỉ có 2 khu Công Nghiệp là có hệ thống xử lý nước thải.Hàng năm,các nhà máy trong khu Công Nghiệp ,khu chế xuất tại TPHCM thải ra gần 63.000 tấn chất thải rắn.Con số này tăng lên gấp 10 lần nếu tính cả các nhà máy ngoài khu Công Nghiệp.Đoạn sông Thị Vải kéo dài trên 10 km từ xã Long Thọ (Nhơn Trạch,Đồng Nai) cho đến thị trấn Phú Mỹ(Tân Thanh,Bà Rịa –Vũng Tàu)bị ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.
15 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2289 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những khiếm khuyết thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I/Tác động ngoại vi(Externalities)
Bài học nhiều nước cho thấy,giá phải trả không áp dụng và thực thi luật môi trường là cao hơn nếu chỉ coi trọng phát triển phát sinh lợi nhuận.Tác nhân thường không gánh chịu hậu quả mà là xã hội,người dân và thế hệ sau gánh chịu.
Giá tri của một thương hiệu và hình ảnh của thương hiệu qua sự nhận thức và cảm nhận của người tiêu dùng sẽ chĩ tăng khi thương hiêu đó có những hoạt động xã hội do công ty chủ trương đề ra và thực hiện.Có nhiều nghiên cứu cho thấy những hoạt động như vậy có hiệu quả nhiều trong lĩnh vực tiếp thị quản cáo cho công ty hơn các phương pháp tiếp thị truyền thống cổ điển.Người tiêu thụ hiện nay ở một số nước đã phát triển bắt đầu có khuynh hướng để ý đến vấn đề môi trường,môi sinh tác dộng qua các sản phẩm hau dịch vụ kinh tế.Họ sẵn sàng bỏ ra thêm hay trả giá cao hơn cho các sản phẩm,dịch vụ ít ảnh hưởng đến môi trường mang hiệu quả “sản phẩm xanh”.
Ở Việt Nam thực trạng hiện tại là ít có doanh nghiệp có trách nhiệm về môi trường và lợi ích xã hội trong chính sách và tôn chỉ của công ty.Sự xuất hiện của những “làng ung thư”
Liên tục trong thời gian gần đây cho thấy,các giá phải trả cho ô nhiễm môi trường là quá đắt.Đứng đầu là ô nhiễm môi trường nước do các doanh nghiệp sản xuất đã thải chất thải không được xử lý tiêu chuẩn.Theo ông Trần Hồng Hà,Cục trưởng Cục Bảo vệ môi trường-Bộ TN&MT,cho biết tính đến tháng 6/2006,Việt Nam co 134 khu Công Nghiệp,khu chế xuất,trong đó chỉ có 33 khu đã có công trình xử lý nước thải tập trung.Các khu Công Nghiệp chế xuất này thải ra hàng triệu tấn rác thải mỗi năm,trong do01 có hàng vạn tấn chất thải nguy hại.
Theo tin tức gần đây,trong số 12 khu Công nghiệp ở Tp.HCM chỉ có 2 khu Công Nghiệp là có hệ thống xử lý nước thải.Hàng năm,các nhà máy trong khu Công Nghiệp ,khu chế xuất tại TPHCM thải ra gần 63.000 tấn chất thải rắn.Con số này tăng lên gấp 10 lần nếu tính cả các nhà máy ngoài khu Công Nghiệp.Đoạn sông Thị Vải kéo dài trên 10 km từ xã Long Thọ (Nhơn Trạch,Đồng Nai) cho đến thị trấn Phú Mỹ(Tân Thanh,Bà Rịa –Vũng Tàu)bị ô nhiễm nguồn nước trầm trọng.
Với những thông tin cập nhật như trên ,trước hết chính phủ cần phải có một chính sách giúp doanh nghiệp thích ứng với những đòi hỏi của xã hội và thế giới bên ngoài thay đổi theo chiều hướng và nhận thức chung của thế giới trong thời đại toàn cầu hóa mà Việt Nam bắt đầu tích cực tham dự sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới(WTO).Thí dụ,các hàng xuất khẩu nông nghiệp và công nghiệp ở một số nước gần đây đã bị trả về hoặc thu hồi do sự kém chất lượng,tác hại vào môi trường và an toàn sức khỏe.
Và khuynh hướng hiện nay là để nâng cao chất lượng cho sản phẩm và thương hiệu của mình trong nước và ngoài nước,các doanh nghiệp vì thế đã dần áp dụng tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu về bảo vệ môi sinh,bảo đảm an toàn trong quá trình sản xuất từ vật liệu đến sản phẩm sau cùng,thậm chí sao cho sản phẩm cuối đời có thể được tái chế hay dễ được sinh hủy không gây ô nhiễm đến môi trường.Ngoài luật trong nước liên quan đến môi trường mà các doanh nghiệp sản xuất phải tuân theo,vai trò của chính phủ trong lĩnh vực kinh tế là tạo ra một môi trường cạnh tranh với các cơ chế khuyến khích áp dụng tiêu chuẩn sản xuất phù hợp,các dịch vụ môi trường và sự xử dụng các kỷ thuật bảo vệ môi sinh và an toàn sản phẩm có sức mạnh cạnh tranh trong và ngoài nước.
Hiện nay trong khu vực ASEAN,một số nước như Thái Lan,Mã lai,Singapore,Phi Luật Tan đã triển khai và bắt đầu áp dụng hệ thống chuẩn nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm,ít tác hại vào môi trường và an toàn cho lao động trong quá trình sản xuất,thâu hoạch,chế biến nông phẩm.Dự định trong tương lai gần ,ASEAN sẽ đề ra tiêu chuẩn chung gọi là ASEANGAP dựa vào các chuẩn đang được thực hiện ở các nước trên.Chính phủ Việt Nam vì thế nên đề ra một chuẩn tương tự và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước áp dụng để sửa soạn cho sản phẩm của mình có chất lượng cao về độ an toàn,không tác hại vào môi sinh và sức khỏe con người.Áp dụng được chuẩn này sẽ giúp cho nông dân và doanh nghiệp tạo ra được các sản phẩm có sức cạnh tranh tốt vào thị trường thế giới,nhất là ở các thị trường có tiêu chuẩn cao như Nhật ,Mỹ và Âu Châu.Không những sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng mà giá thành và rủi ro sẽ được giảm nhiều và tạo được tiếng tốt cho thương hiệu của các doanh nghiệp áp dụng chuẩn GAP.
Hệ thống chuẩn GAP cho sản phẩm nông nghiệp giống như chuẩn ISO 14000 cho sản phẩm công nghiệp.Hiện nay nhiều doanh nghiệp trong nước đã ý thức tầm quan trong của chuẩn ISO 14000 và áp dụng vào trong quá trình sản xuất sản phẩm.Ví dụ như công tư Phong Phú Q9,Việt Tiến,hải sản Bình An(Cần Thơ)đã áp dụng hệ chuẩn ISO 14000 và có những kết quả khả quan trong sự cạnh tranh ở các thị trường này.Đây không phải vì luật pháp bắt buộc mà là sự sống còn của thương hiệu và của chính doanh nghiệp.
Bên cạnh đó còn có chính sách dùng vật liệu tái tạo.Chính quyền trung ương và địa phương cũng phải có chính sách làm dễ dàng hơn cho doanh nghiệp tham dự vào sự việc chung bảo vệ môi trường tài nguyên.Thí dụ ở các thành phố,chính sách dùng vật liệu tái tạo như giấy ,hộp,plastic,chai lọ được khuyến khích và thực thi qua xử lý hai loại rác từ hộ trong thành phố lớn với hai loại thùng rác khác nhau.Trước hết chính sách này có thể được áp dụng ở các thành phố lớn,nơi mà xử lý chất thải rắn(chưa kể việc xử lý chất thải y tế)là một vấn đề lớn rất trầm trọng ở TPHCM và Hà Nội,để giảm áp lực vào các bải rác chôn.Và từ đó có thể áp dụng các nơi khác.Song song với việc thực thi chính sách này là sự giáo dục quần chúng qua nhiếu phương tiện khác nhau để có được hiệu quả cao.Khi đã có nơi cho phép xử lý khác nhau của các loại phế thải trên,doanh nghiệp cụng vì thế sẽ áp dụng chính sách này trong phạm vi rác từ doanh nghiệp.Vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa có lợi cho môi trường và xã hội.Điều này có thể mô tả giống như hoạt động được gọi là marketing xanh(Green Marketing).Marketing môi trường-Marketing sinh thái là những thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động marketing các loại sản phẩm được cho là tốt cho môi trường .Marketing xanh bao gồm hàng hoạt các hoạt động doanh nghiệp từ thay đổi thiết kế sản phẩm,quy trình sản xuất bao bì đóng gói,kể cả hoạt động quản cáo…nhằm đáp ứng “nhu cầu xanh”của người tiêu dùng và xã hội,từ đó tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trước các đối thũ
II.Sự gia tăng quyền lực độc quyền(Monopoly)
Trên thị trường hiện nay có ba hình thức trong mối quan hệ hệ giữa các công tu với nhau thể hiện hành vi độc quyền,hành động của một công ty hoặc sự kết hợp về cấu trúc giữa các công ty độc lập.Ba hình thức này là:các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,độc quyền,lạm dụng vị trí độc quyền hoặc vị trí thống lĩnh và sáp nhập.
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cho phép các nhóm công ty hoạt động cùng nhau nhằm đạt được lợi ích trong vị trí độc quyến,tăng giá,hạn chế sản phẩm và ngăn cản sự xâm nhập mới vào thị trường hoặc các hoạt động phát triển(thường công nghệ hoặc kỹ thuật).Những thỏa thuận nguy hiểm nhất là các thỏa thuận ngăn cản sự ganh đua về các động lực cơ bản của cạnh tranh trên thị trường là giá cả sản phẩm.Tùy theo từng hoàn cảnh,các thỏa thuận về sản phẩm kết hợp chẳng hạn như yêu cầu các nhà phân phối đảm nhận tất cả các khâu hoặc trói buộc các sản phẩm khác nhau lại(chẳng hạn như yêu cầu bán kèm hoac85mua kèm một sản phậm với một sản phẩm đăn được thị trường ưa chuộng),có thể hoặc tạo điều kiện hoặc hạn chế giới thiệu sản phẩm mới.Quyền kinh doanh thường bao gồm một tập hợp các thỏa thuận với các yếu tố cạnh tranh quan trọng.Một thỏa thuận về sử dụng quyền kinh doanh có thể bao gồm các điều khoản về cạnh tranh trong cùng môi trường địa lý,về việc liên hệ với nguồn cung và về các quyền đối với sở hữu trí tuệ chẳng hạn thương hiệu(ví dụ như kinh doanh dưới thương hiệu nào đó phải đảm bảo thống nhất về cách thức trang trí cửa hàng hay sử dụng cùng một nhà cung cấp dịch vụ).Lạm dụng vị trí độc quyền đích thực do không phải đối mặt với cạnh tranh hay đe dọa canh tranh sẽ đưa mức giá cao hơn và sản xuất ít hơn hoặc sản phẩm kém chất lượng hơn.Công ty này cũng có thể ít giới thiệu các sản phẩm phát triển hay các phương pháp cải tiến chất lượng.Thứ ba là “sáp nhập”hay “tập trung kinh tế” bao gồm các loại hợp nhất về cấu trúc chẳng hạn như cổ phần hoặc tài sản,công ty liên doanh,cùng nắm giữ cổ phần hoặc ban quản trị phối hợp(cùng tham gia trong vấn đề điều hành công ty) Việc sáp nhập tại các thị trường có độ tập trung bất thường hoặc việc sáp nhập tạo ra các công ty có thị phần cao bất thường được coi là có nhiều khả năng ành hưởng tới cạnh tranh..
Các hình thức hợp tác giữa các công ty hoặc của một công ty đơn lẻ nhằm tối đa hóa lợi nhuận trên thị trường đang diễn ra ngày càng nhiều.Đó cũng là lý do luật cạnh tranh đang được thông qua ngày càng nhiều trên thế giới với xu hướng ngày càng trừng phạt nặng hơn đối với các hành vi có hại cho cạnh tranh,làm giảm sự năng động của thị trường và làm méo mó quan hệ cung cầu.Và 1/7/2005 theo tờ trình của Chính phủ ,sự cần thiết tạo công cụ pháp lý hạn chế cạnh tranh không lành mạnh đảm bảo sự công bằng,bình đẳng trong kinh doanh,Luật Cạnh tranh chính thức có hiệu lực.
Luật cạnh tranh quy định các hành vi gây hạn chế cạnh tranh bị cấm như: Thỏa thuận ấn định giá ,phân chia thị trường lạm dụng vị thế độc quyền,vị trí thống lãnh thị trường(chiếm trên 30% thị phần)…để áp đạt giá mua,bán bất hợp lý.Tuy nhiên,trên thực tế,năm 2008 đã liên tiếp xảy ra các vụ việc khá điển hình về các vi phạm như Hiệp hội thép Việt Nam ra nghị quyết ấn định giá bán(yêu cầu các thành viên bán 13.7-14 triệu đồng/tấn thép),vụ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thống nhất mức chi phí bảo hiểm len 3.95%/năm cho tất cả các đối tượng khách hàng…Theo luật cạnh tranh,những doanh nghiệp tham gia”liên minh làm giá”này sẽ bị phạt tối đa 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi.Luật gia Vũ Xuân Tiền đã chỉ ra rằng,Luật cạnh tranh đã bao quát hàng loạt nội dung mới không có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế theo mô hình”con anh,con tôi,con chúng ta”như đã xảy ra trong không ít Luật và Pháp lệnh ở nước ta;Luật cạnh tranh cũng bao quát một cách toàn diện những vấn đề liên quan đến cạnh tranh thương trường…Và bên cạnh đó việc Bộ Công thương trình Chính phủ đề án xóa bỏ độc quyền,xây dựng thị trường cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh điện nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và mong muốn của người tiêu dùng là một nỗ lực rất đáng hoan nghênh.Vấn đề lớn và phức tạp nên có ý kiến khác nhau là điều không lạ và có thể giúp cho việc hoàn thiện đề án.Điều quan trọng là vấn đề này không nên đóng khung việc thảo luận trong các cơ quan,tổ chức có liên quan trực tiếp mà cần phát huy được trí tuệ của nhiều người,đặc biệt là các trí thức ở trong và ngoài nước.Việc này làm tốt sẽ thúc đẩy những nổ lực xóa bỏ độc quyền,tạo lập môi trường kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác,đồng thời tạo tiền đề cho việc xây dựng luật bảo đảm quyền của dân được tiếp cận thông tin và đóng góp ý kiến hoàn thiện thể chế,đặc biệt là những chủ trương,chính sách có quan hệ mật thiết tới sản xuất và đời sống của dân.
III/Chênh lệch thái hóa về thu nhập của dân cư:
Lao động ở những ngành “độc quyền” thu nhập rất khác, ví dụ như thu nhập bình quân ở các ngành than, thép, hoá chất, xăng dầu, ngân hàng, điện lưc…cao gấp khoảng 4 lần các ngành dệt may, da giày hay cơ khí. Theo đó, sự phân hoá về thu nhập của người lao động (NLĐ) trong các khu vực và trong các ngành tuỳ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, vào lợi thế độc quyền làm cho chênh lệch mức sống ngày càng cao. Thu nhập của NLĐ trong DNNN Trung ương và DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thường cao hơn DNNN địa phương và DN ngoài quốc doanh.
Cụ thể, thu nhập của NLĐ trong các đơn vị về xăng dầu, bảo hiểm, ngân hàng, điện lực thường cao hơn thu nhập của các ngành nghề khác; các ngành như than, thép, hoá chất, xăng dầu, thuốc lá, rượu, bia, nước giải khát, sữa nhựa… có thu nhập bình quân từ 4-5,4 triệu đồng/NLĐ/tháng/; trong khi lao động trong các ngành dệt may, da giày, cơ khí chỉ thu nhập từ 800 nghìn đồng- 1,2 triệu đồng/NLĐ/tháng. Tiền lương của công nhân trong các DN tư nhân, Công ty TNHH nhìn chung thấp hơn so với các DNNN: như thu nhập bình quân của các DN ngoài nhà nước thuộc ngành công thương năm 2007 chỉ vào 3,1 triệu đồng/tháng; ngành giao thông thậm chí còn thấp hơn, chỉ khoảng 2,4 triệu đồng/tháng. Đối với DN FDI lại nảy sinh khó khăn khác cho NLĐ: làm việc trực tiếp với cường độ cao, nhưng các chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền thưởng, lương làm thêm giờ không được tính đủ và kịp thời; định mức lao động cao khiến NLĐ phải làm thêm giờ mới đạt được. Hiện nay, các doanh nghiệp FDI thuộc ngành dệt may, da giày, chế biến gỗ…đa số chỉ trả lương cho NLĐ cao hơn lương tối thiểu một chút, buộc NLĐ muốn có thu nhập phải làm thêm. Ở các DN dệt may, da giày đang có tình trạng biến động rất lớn về lao động do cường độ lao động căng thẳng, thu nhập thấp trong khi giá cả ngày càng tăng. Nhiều lao động chọn giải pháp về làm ở địa phương, khiến cho khu vực TP.Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương bị thiếu hụt lao động nghiêm trọng. Giá cả tăng cũng đã ảnh hưởng mạnh đến khu vực hành chính, sự nghiệp. Lương thấp, ngày lại càng nhiều khoản đóng góp, tiêu dùng khiến đời sống cán bộ, công chức gặp nhiều khó khăn. Đã xảy ra tình trạng "chảy máu" chất xám ở các cơ quan hành chính nhà nước.Từ góc nhìn của một nhà quản lý, ông Hoàng Minh Hào, Phó vụ trưởng Vụ Tiền lương - Tiền công, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, nhìn nhận vấn đề chênh lệch thu nhập trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường là điều khó tránh khỏi.Theo ông, có ba nguyên nhân khiến cho chênh lệch thu nhập giữa các nhóm lao động ngày càng lớn. Thứ nhất, việc trả lương đã không còn bị bó buộc bởi các quy định, định mức như trước đây. Thứ hai, thỏa thuận mức lương đã theo quy luật cung cầu về lao động. Thứ ba, mức lương chịu tác động bởi biến động nhân lực của từng ngành.
Sự chênh lệch là điều đã xảy ra trong xã hội. Vậy giải pháp nào để thu ngắn khoảng cách đó. Theo tôi chúng ta cần phải tăng cường thảo luận về điều này và với tôi, chúng ta cần làm liền các bước sau:
1.Lập quỹ hổ trợ người thu nhập thấp. Quỹ này dùng kinh phí tự doanh nghiệp để:
a) Xây dựng các trung tâm thông tin về doanh nghiệp sử dụng lao động và mức lương cụ thể,chế độ lao động…b) Xây dựng trung tâm tìm kiếm việc làm, với trách nhiệm giới thiệu việc làm miễn phí cho thành viên. c) Lập các nghiệp đoàn, nhằm đào tạo tay nghề, bổ sung kiến thức miễn phí... d) Lập trung tâm pháp lý bảo vệ người thu nhập thấp, đẩy mạnh hoạt động pháp lý để yêu cầu các công ty sử dụng lao động hoạt động đúng pháp luật...
2. Công đoàn phải thật sự là công đoàn, lắng nghe người lao động, hoạt động vì người lao động... 3. Huy động chuyên gia, tình nguyện viên,.... làm việc với Công đoàn nhằm đào tạo miễn phí các khóa Kỹ năng mềm và cứng (hard skills & soft skills...). 4. Các cơ quan chức năng phải làm quyết liệt, thay vì họp hành và bàn cải.
IV/Chu kỳ kinh doanh(Business cycles)
Khi nghiên cứu các mô hình kinh tế, các nhà kinh tế luôn hướng tới việc tìm hiểu cơ chế dẫn đến các trạng thái cân bằng, đặc biệt trong dài hạn. Trên thực tế, nền kinh tế luôn bị các biến động làm đi chệch khỏi cân bằng dài hạn, gọi là các sốc (shock). Các sốc này có thể tác động rất lâu dài, hoặc rất chóng vánh, có thể dự kiến được hay hoàn toàn bất ngờ. Tùy vào loại sốc, mà dưới tác động của nó nền kinh tế có thể vẫn ở nguyên vị trí cân bằng hay bị dịch chuyển sang trạng thái khác. Quá trình điều chỉnh của nền kinh tế để trở về trạng thái cân bằng có thể nhanh hoặc chậm. Hành trình nền kinh tế khi chịu tác động của sốc, dịch chuyển trở lại vị trí cân bằng được gọi là “chu kỳ kinh doanh“, mặc dù trên thực tế, hành trình này có vẻ không giống như các loại chu kỳ chúng ta thường gặp. Ý nghĩa của nó như sau. Cho dù nền kinh tế không ở trạng thái cân bằng khi hành trình điều chỉnh đang diễn ra, nhưng các nhà kinh tế cho rằng nền kinh tế sẽ “ứng xử” một cách tối ưu trong chu kỳ kinh doanh đó, để hướng tới trạng thái cân bằng dài hạn. Trên thực tế, chu kỳ kinh doanh là một dãy các trạng thái nền kinh tế đi qua, được gọi là dãy các điểm cân bằng tạm thời, và người ta xem mỗi điểm cân bằng tạm thời đó là trạng thái tối ưu tại thời điểm xác định. Dãy các trạng thái này được gọi là một mô hình về cân bằng liên thời. Khái niệm này đặc biệt quan trọng đối với các chính sách kinh tế vĩ mô hiện đại, được xử lý theo phương pháp nghiên cứu DGE, và là một phần thiết yếu của nền tảng cho các chính sách ổn định kinh tế của các chính phủ. Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ). Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai pha chính là suy thoái và hưng thịnh.
Các pha của chu kỳ kinh tế
Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Một số đặc điểm thường gặp của suy thoái là:
Tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút.
Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.
Khi sản lượng giảm thì lạm phát sẽ chậm lại do giá đầu vào của sản xuất giảm bởi nguyên nhân cầu sút kém. Giá cả dịch vụ khó giảm nhưng cũng tăng không nhanh trong giai đoạn kinh tế suy thoái.
Lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh và giá chứng khoán thường giảm theo khi các nhà đầu tư cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh doanh. Cầu về vốn cũng giảm đi làm cho lãi suất giảm xuống trong thời kỳ suy thoái.
Trước đây, một chu kỳ kinh doanh thường được cho là có bốn pha lần lượt là suy thoái, khủng hoảng, phục hồi và hưng thịnh. Tuy nhiên, trong nền kinh tế hiện đại, khủng hoảng theo nghĩa kinh tế tiêu điều, thất nghiệp tràn lan, các nhà máy đóng cửa hàng loạt, v.v… không xảy ra nữa. Vì thế, toàn bộ giai đoạn GDP giảm đi, tức là giai đoạn nền kinh tế thu hẹp lại, được gọi duy nhất là suy thoái. Ở Việt Nam cho đến đầu thập niên 1990, trong một số sách về kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa, khi nói về chu kỳ kinh tế thường gọi tên bốn pha này là khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. Nay không còn thấy cách gọi này nữa.
Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
Nguyên nhân chu kỳ kinh doanh:
Vì cách lý giải nguyên nhân gây ra chu kỳ giữa các trường phái kinh tế học vĩ mô không giống nhau, nên biện pháp chống chu kỳ mà họ đề xuất cũng khác nhau.
Chủ nghĩa Keynes cho rằng chu kỳ kinh tế hình thành do thị trường không hoàn hảo, khiến cho tổng cầu biến động mà thành. Do đó, biện pháp chống chu kỳ là sử dụng chính sách quản lý tổng cầu. Khi nền kinh tế thu hẹp, thì sử dụng các chính sách tài