BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
Những biểu hiện của hiện tượng biến đổi khí hậu còn gồm có:
- Mực nước biển dâng cao khi các tấm băng ở hai cực tan dần
- Lượng mưa thay đổi thất thường, nhiều vùng trên thế giới sẽ có hạn hán kéo dài, nhiều vùng khác lại bị lũ lụt trầm trọng.
- Lưu lượng nước trên các sông ngòi thay đổi thất thường , khi thì quá cao trong mùa mưa và khi thì quá thấp trong mùa khô.
- Các hiện tượng cực đoan như bão, lũ sẽ tăng cao cả về tần suất và về cường độ.
- Và nhiều hiện tượng kácthường khác
7 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề đặt ra trong sự phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long dưới tác dụng của biến đổi khí hậu?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu hỏi:
Những vấn đề đặt ra trong sự phát triển của ĐBSCL dưới tác dụng của biến đổi khí hậu?
Bài làm:
BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
Những biểu hiện của hiện tượng biến đổi khí hậu còn gồm có:
- Mực nước biển dâng cao khi các tấm băng ở hai cực tan dần
- Lượng mưa thay đổi thất thường, nhiều vùng trên thế giới sẽ có hạn hán kéo dài, nhiều vùng khác lại bị lũ lụt trầm trọng.
- Lưu lượng nước trên các sông ngòi thay đổi thất thường , khi thì quá cao trong mùa mưa và khi thì quá thấp trong mùa khô.
- Các hiện tượng cực đoan như bão, lũ sẽ tăng cao cả về tần suất và về cường độ.
- Và nhiều hiện tượng kácthường khác…
Nước biển dâng cao lấn chiếm các vùng đất ven biển
khoảng thời gian dài, thờng là vài thập kỷ hoặc dài hơn.
1. Những biểu hiện của biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam và tại ĐBSCL.
1.1. Trên phạm vi cả nước:
Theo Trung tâm Khoa học Công nghệ Khí tượng Thủy văn và Môi trường, trong 70 năm (1931 - 2000), nhiệt độ trung bình ở Việt Nam đã tăng lên 0,70C và mực nước biển dâng cao thêm 20 cm. Nhiệt độ trung bình 4 thập kỷ gần đây (1961 - 2000), cao hơn 3 thập kỷ trước đó (1931 - 1960). Trong khi đó, các cơn bão có xu hướng dịch chuyển vào phía Nam và mùa bão cũng chuyển dần về cuối năm; nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan đã xuất hiện, gây hậu quả nặng nề về người và tài sản ở các địa phương trong cả nước (GS.TSKH Nguyễn Đức Ngữ).
Đo bằng cột mốc thuỷ triều
Đo bằng vệ tinh
Năm
1880 1900 1920 1940 1960 1980 2000
100
50
0
-50
-100
-150
-200
Mực nước biển
(mm)
NƯỚC BIỂN DÂNG QUA CÁC NĂM
1888 - 2000
Số lượng những đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt trong 2 thập niên gần đây, như năm 1994 và năm 2007 chỉ có 15 - 16 đợt không khí lạnh (bằng 56% trung bình nhiều năm).
Số cơn bão có cường độ mạnh nhiều hơn, quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ phía nam, mùa bão kết thúc muộn hơn và nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển dị thường hơn. Sau bão thường là mưa lũ, sạt lở đất, lũ quét, lũ ống.
Nhiều hiện tượng thiên nhiên trái với quy luật đã diễn ra. Triều cường, mưa bão xảy ra nhiều hơn tại TPHCM, Hà Nội... Miền Trung liên tục trải qua những đợt nắng nóng kéo dài. Những cơn bão, lũ quét ở các vùng núi phía Bắc diễn ra bất ngờ với sức tàn phá ngày càng ác liệt.
Theo tính toán, dự báo xu thế BĐKH ở Việt Nam những năm tới như sau:
+ Nhiệt độ trung bình có thể tăng lên 30C vào năm 2100;
+ Lượng mưa có xu thế biến đổi không đồng đều giữa các vùng, có thể tăng từ 0% đến 10% vào mùa mưa và giảm từ 0% đến 5% vào mùa khô, tính biến động của mùa tăng lên;
+ Mực nước biển trung bình trên dải bờ biển có thể dâng lên 1m vào năm 2100.
1.2. Tại ĐBSCL:
Các vùng ngập nước khi
nước biển dâng
Bản đồ đồng bằng sông Cửu Long khi nước biển dâng (Dự đoán 2100)
ĐBSCL thường xuyên chịu tác động của BĐKH với sự tác động kép của nước ở thượng nguồn đổ về và tác động từ biển. Trong đó sự hoạt động của biển ảnh hưởng vô vùng to lớn đến diện tích đất nông nghiệp, diện tích đất phù sa bị chìm ngập trong nước sẽ tăng lên gây nên nhiều khó khăn cho việc phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.
Theo nghiên cứu của Phân viện Khí tượng thủy văn và môi trường phía Nam, kết quả quan trắc tại các trạm ở ĐBSCL cho thấy: từ năm 1960 - 2000, lượng mưa có sự gia tăng khoảng 200 - 400 mm. Trong suốt 87 năm (1884 - 1970), chỉ có 0,75% số cơn bão và áp thấp nhiệt đới trên Thái Bình Dương có ảnh hưởng đến ĐBSCL. Nhưng con số này đã tăng lên tới 2,88% trong thời gian gần đây (1956 - 1997). Tình trạng nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền càng phổ biến. Mùa khô 1998, nước mặn với độ mặn 4% đã tràn vào đất liền, có nơi vào sâu tới 45 km, 2/3 diện tích bán đảo Cà Mau bị nhiễm mặn, hơn 200 ngàn ha lúa hè thu bị ảnh hưởng nghiêm trọng, 32% trong số đó bị mất trắng.
Những ảnh hưởng của BĐKH có tác động to lớn tới các ngành nông nghiệp, thủy sản, cung cấp và xử lý nước, năng lượng, giao thông và quy hoạch nông thôn…
Vì vậy, vấn đề thích ứng và đối phó với BĐKH ở Việt Nam noi chung và ĐBSCL nói riêng là vấn đề cấp thiết.
2. Những vấn đề đặt ra trong phát triển ĐBSCL dưới tác động của BĐKH.
2.1. Những vấn đề đặt ra.
a. Vấn đề kinh tế.
- Nông nghiệp: Nếu như dự báo thì trong vài chục năm tới sẽ có khoảng 90% diện tích trồng lúa ĐBSCL bị ngập hoàn toàn (không sản xuất được).
Diện tích đất phù sa ngọt phân bố chủ yếu dọc sông Tiền và sông Hậu sẽ chịu tác động thường xuyên và mạnh mẽ của hai con sông này do lưu lượng nước từ thượng nguồn đổ về sẽ lớn hơn và thất thường hơn. Một diện tích không nhỏ đất phù sa sẽ không thể tiến hành canh tác các loại cây trồng.
=> Khó khăn sẽ tác động to lớn đến nông nghiệp do đất đai sản xuất bị thu hẹp. Vì vậy một yêu cầi đặt ra là phải làm sao trong điều kiện diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp do nước biển xâm lấn những vẫn không ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, không để sản xuất nông nghiệp ở đây bị ngưng trệ.
- Thủy sản: Diện tích mặt nước phục vụ cho ngành thủy sản sẽ có sự biến đổi to lớn. Nhiều diện tích đang sử dụng có thể không tiếp tục hoạt động, đồng thời nhiều diện tích mới được mở ra do sự xâm nhập của nước biển. Các diện tích đất nông nghiệp trước đây bị ngập nước có thể chuyển sabg phát triển nuôi trồng thủy sản.
b. Vấn đề xã hội:
- Nhà ở: Một vấn đề đi liền với việc đất nông nghiệp bị thu hẹp đó chính là sự thu hẹp của diện tích đất thổ cư. Hiện nay một bộ phận rất đông người dân của ĐBSCL đang sinh sống trong những phạm vi chịu ảnh hưởng nặng nề từ việc nước biển dâng.
=> Vì vậy cần phải có những biện pháp đối phó với viễn cảnh không xa này để làm sao ổn định cư trú và sản xuất.
- Dich bệnh: Trong khoảng 25-30 năm trở lại đây, đã có khoảng 30 bệnh mới xuất hiện tại Việt Nam, một số bệnh cũ cũng đã xuất hiện trở lại do những biến đổi của khí hậu.
c. Vấn đề môi trường và bảo tồn sự đa dạng sinh học:
BĐKH là hậu quả của sự ô nhiễm môi trường trên phạm vi toàn cầu, do đó các tác động của hiện tượng nước biển dâng đến ĐBSCL sẽ làm cho môi trường nơi đây bị tác động theo nhiều hướng tiêu cực, mà trước hết là sự thay đổi của các hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển từ cửa sông Sài Gòn đến Kiên Giang.
2.2. Những giải pháp.
Đây là một vấn đề mang tính chất toàn cầu rất khó để có thể đưa ra được những giải pháp giải quyết vấn đề một cách tối ưu hoá. Tuy nhiên với nhiều cố gắng của nhà nước, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, các cơ quan chức năng sau nhiêu kỳ hội thảo, đưa ra các kịch bản về BĐKH ĐBSCL bước đầu đã đư ra được một số giải pháp để đối phó với BĐKH tại khu vực ĐBSCL.
Thứ nhất, cần tiến hành các biện pháp bảo vệ đất, nhất là đối với các vùng đất thấp, đất ven biển, những vùng đất này sẻ bị ảnh hưởng đầu tiên và mạnh mẻ nhất có thể bị ngập nước hoặc xói mòn.
Thứ hai, chuyển đổi mục đích sản xuất cho phù hợp với những vùng đất bị ngập chìm trong nước biển như phát triển ngành thủy sản, phát triển các hệ sinh thái rừng ngập nước, …
Thứ ba, thực hiện các biện pháp thích nghi với biến đổi khí hậu như sống chung với nước bằng cách nâng cao kết cấu hạ tầng hoặc tạo ra các kết cấu nổi hoặc có thể di chuyển được.
Thứ bốn, di dời dân ra khỏi vùng bị ảnh hưởng, đồng thời thực hiện việc tái định cư đối với các khu vực bị tác động của lũ lụt, của nước biển bằng cách di dân ra khỏi khu vực ảnh hưởng. Sau khi di dời, có thể tận dụng các vùng đất này làm đất nông nghiệp, thủy sản hoặc dùng vào các mục đích khác phù hợp hơn.
Thứ năm, phải không ngừng nâng cao nhận thức cộng đồng, cần phải tạo một sự thức tỉnh mới trong cộng đồng xã hội về thực trạng của biến đổi khí hậu ĐBSCL hiện nay, để từ đó có kinh nghiệm ứng phó với những diễn biến mới xuất hiện như bão, lũ lụt, nước biển dâng… Bên cạnh đó cần đào tạo nâng cao kỹ năng, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ để có thể tiếp nhận và ứng dụng thành công sự hỗ trợ, tư vấn của các chuyên gia, các tổ chức quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực lồng ghép biến đổi khí hậu vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Mục lục