Các cuộc đàm phán vềtiếp cận thịtrường trong WTO chỉxoay quanh vấn đềthương mại
hàng hóa và dịch vụ. Các cuộc đàm phán vềhàng hóa – đối tượng của Chương này và các
Chương sau trong Phần III – luôn nhất thiết phải liên quan đến cắt giảm và bãi bỏthuế
quan hay cắt giảm một sốrào cản phi thuếquan nhất định cho việc nhập khẩu. Các quy
định của WTO bao gồm bảo hộdựphòng, các tiêu chuẩn, vân vân tựthân nó không
phải là một bộphận của các đàm phán đểtiếp cận thịtrường, mặc dù nó có một ảnh
hưởng quan trọng đến các điều kiện của sựtiếp cận thịtrường. Việc chấp nhận các qui
định đã được cải thiện của WTO có thểsẽ đóng góp vào sựbảo đảm và khảnăng tiên
đoán của sựtiếp cận thịtrường. Chương này sẽcung cấp một giới thiệu khái quát của các
vấn đềchính của tiếp cận thịtrường mà các nước đang phát triển đang đối mặt.
12 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1020 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề về tiếp cận thị trường và WTO: giới thiệu khái quát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TIẾP CẬN
THỊ TRƯỜNG VÀ WTO: GIỚI THIỆU KHÁI
QUÁT
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2005 – 2006
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận
Bernard Hoekman et al. 1 Biên dòch: Leâ Minh Taâm
Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TIẾP CẬN
THỊ TRƯỜNG VÀ WTO: GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT
Các cuộc đàm phán về tiếp cận thị trường trong WTO chỉ xoay quanh vấn đề thương mại
hàng hóa và dịch vụ. Các cuộc đàm phán về hàng hóa – đối tượng của Chương này và các
Chương sau trong Phần III – luôn nhất thiết phải liên quan đến cắt giảm và bãi bỏ thuế
quan hay cắt giảm một số rào cản phi thuế quan nhất định cho việc nhập khẩu. Các quy
định của WTO bao gồm bảo hộ dự phòng, các tiêu chuẩn, vân vân tự thân nó không
phải là một bộ phận của các đàm phán để tiếp cận thị trường, mặc dù nó có một ảnh
hưởng quan trọng đến các điều kiện của sự tiếp cận thị trường. Việc chấp nhận các qui
định đã được cải thiện của WTO có thể sẽ đóng góp vào sự bảo đảm và khả năng tiên
đoán của sự tiếp cận thị trường. Chương này sẽ cung cấp một giới thiệu khái quát của các
vấn đề chính của tiếp cận thị trường mà các nước đang phát triển đang đối mặt.
Các Đàm Phán Về Thuế Quan
Theo quy định tại Điều khoản XXVIII bis của GATT 1994, các đàm phán về thuế quan
trong WTO được thực hiện “trên nền tảng đối ứng và đôi bên cùng có lợi” với mục tiêu
đạt được là “cắt giảm đáng kể mức thuế quan chung và những lệ phí đánh trên hàng hoá
xuất nhập khẩu đặc biệt là việc cắt giảm các loại thuế cao đã làm hạn chế nhập khẩu ngay
cả với những số lượng tối thiểu.” Các cuộc đàm phán có thể được hướng đến việc cắt
giảm các khoản thuế được áp dụng hay sự ràng buộc của các nghĩa vụ. Các cuộc thương
lượng này có thể đề cập đến một số sản phẩm cụ thể hay có thể là dưới một thỏa thuận
thủ tục đa phương. Nó có thể xem xét các nhu cầu riêng của các thành viên hay các
ngành công nghiệp và linh động đối với các nước đang phát triển để hổ trợ phát triển kinh
tế. Tuy nhiên, việc áp dụng những hướng dẫn này còn tùy thuộc vào sự chấp nhận của
các thành viên trong cuộc thương lượng, và rất khó cho một nước nào đó dựa vào những
hướng dẫn này để tránh thực hiện các cam kết. Kết quả của những cuộc đàm phán này
được liệt kê trong lịch trình cam kết của mỗi thành viên được ghi chép trong Cơ Sở Dữ
Liệu Thống Nhất của WTO và không được công bố.
Sự ra đời của các cuộc đàm phán đa phương đã được quyết định ở các cuộc họp cấp bộ
trưởng. Tuy nhiên, các sữa đổi của những nhượng bộ này, không cần phải chờ thêm một
vòng đàm phán nữa mà có thể thương lượng theo các qui định tại Điều XXVIII của
GATT 1994 với những thành viên nào đã từng tham gia đàm phán lúc ban đầu cũng như
những thành viên nào có “quan tâm”. Những cuộc đàm phán đó căn cứ theo việc tham
khảo ý kiến của bất cứ thành viên khác nào “có lợi ích đáng kể” đối với sản phẩm hay các
sản phẩm có liên quan.
Một niềm tin phổ biến cho rằng các loại thuế quan là không quan trọng cho các cuộc
đàm phán xuất phát từ sự kiện là sau bảy vòng đàm phán thương mại đa phương các mức
thuế quan công nghiệp tối huệ quốc theo hệ số nhập khẩu của các nước công nghiệp sẽ
đạt mức trung bình là 3.5 phần trăm khi các cam kết của Vòng Đàm Phán Uruguay được
thực hiện hoàn toàn. Nhưng điều tệ hại là ở phần chi tiết; các mức thuế quan trung bình
đơn giản có thể cao gấp hai lần mức thuế đã tính hệ số nhập khẩu – thuế càng cao, xu
hướng nhập khẩu càng thấp. Mặt khác, sự tồn tại của của nhiều hệ thống ưu đãi khác
nhau cũng có nghĩa rằng ngay cả các thuế suất tối huệ quốc cũng cao hơn nhiều biểu thuế
suất trong nhiều lĩnh vực thương mại.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận
Bernard Hoekman et al. 2 Biên dòch: Leâ Minh Taâm
Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
Thuế suất cao và đỉnh thuế suất (cao nhiều lần mức trung bình trong vài trường hợp,
vượt hơn mức 100 phần trăm) phổ biến ở một vài ngành. Rất nhiều trong số các thuế suất
cao này rơi vào lĩnh vực quan tâm xuất khẩu của các nước đang phát triển – dệt may và
quần áo, giầy dép và sản phẩm nông nghiệp (Bảng 11.1). Các thuế suất nông nghiệp nói
chung là cao hơn thuế suất đánh trên các nhà sản xuất. Tác động của việc “thuế quan
hóa” các rào cản phi thuế quan (NTBs) trong Vòng Đàm Phán Uruguay cũng rất lớn đối
với việc nâng mức thuế suất trung bình.
Sự leo thang thuế suất của các nước công nghiệp, thể hiện là thuế suất sẽ tăng ở các
giai đoạn sau trong quá trình sản xuất để khuyến khích sản xuất trong nước, có thể tác
động xấu đến quá trình công nghiệp hóa của các nước đang phát triển. Bảng 11.2 đưa ra
một bức tranh về leo thang thuế suất ở các nước công nghiệp khi hoàn tất việc thực hiện
Vòng Đàm Phán Uruguay. Các nước đang phát triển cũng áp dụng thuế suất cao đối với
các nhà sản xuất sử dụng nhiều lao động và nông nghiệp. Nhìn chung, các mức thuế suất
của họ cao hơn của các nước công nghiệp và điều đó cũng cho thấy một sự leo thang
(Michalopoulos 1999a).
Như đã được Hoekman đề cập ở Chương 6 trong quyển sách này, vấn đề trong WTO là
mức thuế suất giới hạn. Với các nước đang phát triển, mức thuế suất giới hạn cao hơn
nhiều so với mức thuế suất được áp dụng. Ví dụ, các thành viên WTO ở Bắc Phi và
Trung Đông có mức thuế suất giới hạn trung bình là 26.8 phần trăm trong khi đó mức
thuế suất được áp dụng là 14.4 phần trăm (Bảng 11.3). Điều này tạo ra một mức độ
không chắc chắn cho việc tiếp cận thị trường ở các nước này.
Bảng 11.1: Các mức thuế suất áp dụng và mức thuế suất giới hạn theo các nhóm sản
phẩm chính ở hậu-Vòng Đàm Phán Uruguay của các nền kinh tế công nghiệp và nền kinh
tế đang phát triển
Các nền kinh tế
công nghiệp
Các nền kinh tế
đang phát triển
Nhóm sản phẩm Áp
dụng
Giới
hạn
Áp dụng Giới
hạn
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
Nông nghiệp, ngoại trừ cá
Cá và sản phẩm cá
Xăng dầu
Gỗ, bột giấy, giấy, và đồ gỗ
Vải, quần áo
Da, nhựa cao su, và giày dép
Kim loại
Hóa chất và vật tư ngành ảnh
Phương tiện chuyên chở
Máy không chạy bằng điện
Máy chạy bằng điện
Sản phẩm khoáng, đá và kim loại
qúy
Các sản phẩm khác chưa đề cập
5.2
4.2
0.7
0.5
8.4
5.5
0.9
2.2
4.2
1.1
2.3
0.7
1.4
2.5
7.2
4.9
0.9
0.9
11.0
6.5
1.6
3.6
5.6
1.9
3.7
1.0
2.0
3.5
18.6
8.6
7.9
8.9
21.2
14.9
10.8
12.4
19.9
13.5
14.6
7.8
12.1
13.3
19.9
25.9
8.4
10.3
25.5
15.4
10.4
16.8
13.2
14.5
17.2
8.1
9.2
13.3
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận
Bernard Hoekman et al. 3 Biên dòch: Leâ Minh Taâm
Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
Hàng công nghiệp (hàng 4-13)
Tất cả các mặt hàng thương mại
2.6 3.7 13.3 13.0
Ghi chú: Trung bình có trọng số, ngoại trừ thương mại trong khu vực tự do mậu dịch.
Mức thuế suất được áp dụng là của kỳ cơ sở. mức thuế suất giới hạn là những mức áp
dụng cho sau khi thực hiện. Trong vài trường hợp, điều này có nghĩa là mức thuế suất
được áp dụng cao hơn mức thuế suất giới hạn.
Nguồn: Finger, Ingco và Reincke (1996)
Vì vậy, các dữ kiện được điều chỉnh đúng là các mô hình ngành của thuế suất mà vẫn
còn rất phân tán cùng với các khoảng cách đáng kể giữa mức thuế suất được áp dụng và
mức thuế suất giới hạn. Lý do của sự việc này liên quan một phần đến sự tiến triển của
chính sách ngành và một phần đến sự tham gia của các thành viên WTO trong các đàm
phán. Chính sách nông nghiệp ở nhiều nước là xuất phát từ lịch sử an toàn lương thực và
nhu cầu bảo đảm tự cấp. Kết quả là, nông nghiệp bị loại ra khỏi các cuộc đàm phán trước
Vòng Đàm Phán Uruguay. Các biểu thuế suất cao của các nước đang phát triển phản ánh
các chính sách công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu. Theo những qui định của việc
đối xử đặc biệt và khác nhau, các nước này không buộc phải thực hiện các nhượng bộ
trong các vòng đàm phán GATT đầu tiên. Kết cục, các nước này được lợi rất ích và phần
lớn hàng xuất khẩu của họ bị đánh thuế cao.
Khoảng cách giữa mức thuế suất được áp dụng và mức thuế suất giới hạn liên quan rất
nhiều đến các chương trình cải cách độc lập của các nước đang phát triển trong những
năm 1980 và 1990. Nó cũng là kết quả của các thỏa thuận thương mại khu vực mà ngày
càng trở nên thịnh hành (Crawford and Laird 2000), cũng như việc áp dụng các ưu đãi
đơn phương như Hệ Thống Ưu Đãi Phổ Cập (GSP), Thỏa Thuận Cotonou (thay thế cho
Hiệp Định Lomé), Sáng Kiến Vịnh Caribbean và những ưu đãi đặt biệt để cải thiện sự
tiếp cận thị trường cho các nước kém phát triển. Khi mức thuế suất giới hạn tối huệ quốc
(MFN) bị cắt giảm trong các đàm phán đa phương, giá trị của các ưu đãi cũng bị giảm và
điều này có thể dẫn đến việc một vài nước sẽ phản đối cắt giảm thuế quan tối huệ quốc
hay sẽ ít quan tâm hơn đến các đàm phán đa phương. Tuy nhiên, các thuế suất MFN đã
được đàm phán sẽ đảm bảo hơn các ưu đãi. Về lâu dài, các cơ cấu công nghiệp được
mong đợi là sẽ được áp dụng vào một nền thương mại tự do hơn để được lợi từ các lợi thế
so sánh.
Bảng 11.2: Leo thang thuế suất trên các sản phẩm do các nền kinh tế công nghiệp và nền
kinh tế đang phát triển nhập khẩu
Sản phẩm Thuế suất giới hạn (phần
trăm) hậu-Vòng Đàm Phán
Uruguay
Tất cả các sản phẩm công nghiệp (ngoại trừ xăng dầu)
Nguyên liệu
Bán thành phẩm
Thành phẩm
Tất cả các sản phẩm nhiệt đới
Nguyên liệu
4.3
0.8
2.8
6.2
1.9
0.0
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận
Bernard Hoekman et al. 4 Biên dòch: Leâ Minh Taâm
Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
Bán thành phẩm
Thành phẩm
Sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên
Nguyên liệu
Bán thành phẩm
Thành phẩm
3.5
2.6
2.7
2.0
2.0
5.9
Nguồn: GATT (1994a)
Bảng 11.3: Mức thuế suất áp dụng và mức thuế suất giới hạn có tính trọng số nhập khẩu
hậu-vòng đàm phán Uruguay (phần trăm)
Nhóm nước hay vùng Thuế suất áp dụng Thuế suất giới hạn
Các nền kinh tế công nghiệp
Các nền kinh tế đang phát triển
Châu Mỹ Latinh và Caribbean
Đông Á và Thái Bình Dương
Nam Á
Các nước Châu Âu khác và Trung Á
Trung Đông và Bắc Phi
Tiểu vùng Sahara-Châu Phi
4.0
13.1
10.1
9.8
27.7
9.6
14.4
16.5
4.7
20.8
18.6
16.6
56.1
14.9
26.8
19.8
Ghi chú: Bình quân không có trọng số, ngoại trừ thương mại trong khu vực tự do mậu
dịch. Mức thuế suất áp dụng là của năm gần nhất có được, nói chung là 1997, 1998 hay
1999. Dữ liệu của mức thuế suất áp dụng bao gồm 96 các nước đang phát triển và 23
nước công nghiệp. Dữ liệu của mức thuế suất giới hạn chỉ bao gồm 65 nước đang phát
triển. Xem phụ lục A, Bảng A.2 của quyển sách này để có các chi tiết mức thuế suất áp
dụng theo từng nước.
Nguồn: WTO, IBD CD-ROM 2000; WTO, Khảo Sát Chính Sách Thương Mại, những ấn
bản khác; Ngân Hàng Thế Giới (2000e)
Lợi Ích Của Việc Tự Do Hóa Hơn Nữa
Các nước đang phát triển đóng góp phần rất lớn vào thành công của việc tự do hóa nông
nghiệp. Hertel và những người khác đã xây dựng một mô hình của kinh tế toàn cầu vào
năm 2005 – thời điểm mà các cam kết của Vòng Đàm Phán Uruguay sẽ được giới thiệu
đầy đủ – và ước lượng rằng việc cắt giảm 40 phần trăm các thuế suất nông nghiệp và trợ
cấp xuất khẩu sẽ mang lại tổng thu nhập thực tế toàn cầu là khoảng 60 tỉ USD mỗi năm.
Con số này sẽ tăng thêm 10 tỉ USD nếu các trợ giúp trong nước cũng giảm khoảng 40
phần trăm, mặc dù mức độ không chắc chắn của sự thanh toán cho các nhà sản xuất được
kết nối với các quyết định sản xuất làm cho các phân tích trên trở nên rất khó khăn. Tỷ lệ
phần trăm của mức tăng thu nhập thực tế đi kèm với sự tự do hóa, được ghi ở cột thứ nhất
cho mỗi nước hay mỗi khu vực ở Biểu đồ 11.1, đạt lớn nhất ở những khu vực như Nam Á
(trừ Ấn Độ) và Đông Nam Á (trừ Indonesia). Tất cả những khu vực đang phát triển
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận
Bernard Hoekman et al. 5 Biên dòch: Leâ Minh Taâm
Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
ngoại trừ khu vực nhập khẩu lương thực đơn thuần ở Trung Đông là đạt được lợi ích từ
các cắt giảm thuế quan đa phương trong việc bảo hộ nông nghiệp. Tổng các lợi ích này,
có được do những cải thiện hiệu quả do chính các nước đang phát triển tạo ra (cột thứ hai
của một nước hay khu vực), phản ánh phần lớn các lợi ích tiềm năng từ tự do hóa do việc
bãi bỏ các bảo hộ.
Đã có một sự thay đổi nhanh chóng trong cấu trúc của thương mại quốc tế trong vòng
hai thập kỷ qua. Trong khoảng giữa những năm 1960, hàng sản xuất xuất khẩu chỉ chiếm
khoảng một phần tư tổng xuất khẩu của các nước đang phát triển, đến đầu những năm
1980 chỉ tăng lên khoảng một phần ba. Từ đó, tăng trưởng đã trở nên nhanh hơn. Vào
giữa những năm 1990, tỉ trọng này là ba phần tư và dự kiến sẽ tiếp tục tăng (Biểu đồ
11.2).
Ý nghĩa của sự cắt giảm 40 phần trăm các rào cản thương mại nông nghiệp
Nguồn: Hertel và các người khác (sẽ xuất bản)
Tỷ trọng xuất khẩu của các nước đang phát triển sang các nước đang phát triển khác cũng
tăng nhanh chóng khi tầm quan trọng của các nước đang phát triển trong nền kinh tế toàn
cầu tăng lên. Vì vậy, các nước đang phát triển rất quan tâm đến việc tìm cách cắt giảm
thuế suất các sản phẩm công nghiệp. Thuế suất bình quân của OECD cho hàng nhập khẩu
11.1
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận
Bernard Hoekman et al. 6 Biên dòch: Leâ Minh Taâm
Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
từ các nước đang phát triển cao gấp bốn lần cho hàng nhập khẩu từ chính các nước
OECD (Bảng 11.4), phản ảnh các thuế suất cao trên các sản phẩm như dệt may và quần
áo. Các ước lượng của về các khoản thuế đã trả cho thấy rằng các rào cản mà các nước
đang phát triển đối mặt trong thị trường các nước đang phát triển khác chiếm 70 phần
trăm của tổng thuế đánh vào các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu (Hertel và Martin
2000).
Tỷ trọng của các ngành sản xuất trong Thương Mại Xuất Khẩu Của Các Nước
Đang Phát Triển, thực tế và dự phóng 1965-2005
Nguồn: Hertel và Martin (2000)
Một phân tích tương tự về tác động của việc tất cả các nước cắt giảm 40 phần trăm của
mức thuế suất được áp dụng trên các ngành sản xuất cho thấy rằng doanh số thương mại
toàn cầu sẽ tăng khoảng 380 tỉ USD trong năm 2005, tức khoảng 4.7 phần trăm của tổng
dự phóng thương mại hàng hóa và dịch vụ Hertel và Martin (2000). Lợi ích hiệu quả lớn
nhất (như một phần của thu nhập) xảy ra ở các nền kinh tế đang phát triển, và các nước
hay khu vực có mức thuế suất cao nhất vào năm 2005 (Trung Quốc, các nước Nam Á
khác và Ấn Độ) được lợi nhiều nhất.
11.2
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận
Bernard Hoekman et al. 7 Biên dòch: Leâ Minh Taâm
Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
Bảng 11.4: Các hình thức bảo hộ trong sản xuất
Vùng nhập khẩu
Vùng xuất khẩu Các nền kinh tế
thu nhập cao
Các nền kinh tế
đang phát triển
Thuế suất bình quân có tính
trọng số nhập khẩu (phần trăm)
Các nền kinh tế thu nhập cao
Các nền kinh tế đang phát triển
Toàn thế giới
Tổng thuế đã trả (tỉ Đô la Mỹ)
Các nền kinh tế thu nhập cao
Các nền kinh tế đang phát triển
Toàn thế giới
0.8
3.4
1.5
16
23
40
10.9
12.8
11.5
93
57
150
Nguồn: Hertel và Martin (2000)
Các Vấn Đề Và Các Phương Thức Đàm Phán Thuế Suất
Người ta nhận thấy rằng các nước đang phát triển phải được ghi nhận công lao vì quá
trình tự do hóa thương mại độc lập theo các chương trình cải cách của họ. Một vài nước
có quan điểm rằng để các nước đang phát triển xứng đáng với công trạng đó thì nhất thiết
phải có một thuế suất thấp và đã được cải cách. Điều này thật khó trong một phương thức
đàm phán “hỏi-trả lời”, trong khi các nước đang phát triển có thị trường nhỏ và quyền lực
đàm phán yếu. Các phương pháp mang tính công thức mà đòi hỏi một sự cắt giảm thuế
suất nhiều hơn có thể giúp làm giảm đỉnh lãi suất và sự leo thang lãi suất (xem Laird,
1999b; xem Chương 53 của Panagariya trong quyển sách này). Một phương pháp mang
tính công thức cũng có thể giúp giải quyết các khó khăn liên quan đến việc ghi nhận như
thế nào. Một lựa chọn khác có thể là thực hiện những cắt giảm sớm (trước khi kết thúc
một vòng đàm phán) và thực hiện cắt giảm sâu rộng hơn các thuế suất MFN trên các sản
phẩm được chú trọng xuất khẩu cho các các nước đang phát triển hay các nước kém phát
triển tương tự như đã áp dụng với các sản phẩm nhiệt đới ở Vòng Đàm Phán Uruguay.
Trước Hội Nghị Các Bộ Trưởng ở Seatle, một vài nước trong Hội Đồng Kinh Tế Châu Á
Thái Bình Dương đã đề nghị một sự “thu hoạch sớm” các sản phẩm của tự do hóa nhanh
chóng (xem phân tích của Dee, Hardin và Schuele 1998). Đã có nhiều đề nghị giảm các
mức thuế suất cực thấp (thuế suất làm phiền) xuống còn bằng không. Việc cắt giảm nhiều
hơn các thuế suất trên nguyên vật liệu và linh kiện hơn là trên các thành phẩm có thể sẽ
làm tăng sự bảo hộ hiệu quả, tạo ra một kết quả lâu dài cho việc phân bổ nguồn lực.
Đơn giản hóa cơ cấu thuế suất có thể làm tăng tính minh bạch và giúp làm giảm tình
trạng mập mờ của sản xuất và thương mại. Nhờ vậy, đàm phán mới có thể được sử dụng
để tái cấu trúc chính sách ngành và chính sách tài chính. Đa số các thành viên của WTO
có một dãy thuế suất – điển hình là thuế suất bằng không cho nguyên vật liệu, thấp đến
trung bình cho các sản phẩm trung gian, thuế suất cao cho các thành phẩm – nhưng một
vài nước thì có đến hàng trăm thuế suất khác nhau.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Ngoại thương:
Thể chế và tác động
Phát trịển, thương mại, và WTO
Ch. 11: Những vấn đề về tiếp cận
Bernard Hoekman et al. 8 Biên dòch: Leâ Minh Taâm
Hieäu ñính: Tröông Quang Huøng
Nếu mức cắt giảm bình quân được thỏa thuận là tính trọng số theo nhập khẩu, tương tự
như trường hợp các sản phẩm công nghiệp trong quá khứ, các nước có thể tránh việc cắt
giảm thuế trên các sản phẩm bị áp dụng thuế suất cực cao hay NTBs (rào cản phi thuế
quan). Một cách để ngăn cản sự ngoại lệ này là thỏa thuận một sự cắt giảm tối thiểu mỗi
dòng thuế. Ở Vòng Đàm Phán Uruguay các cắt giảm thuế nông nghiệp đã được thực hiện
trên cơ sở bình quân đơn giản. Tính trọng số theo nhập khẩu không phải là một đề nghị
thực tế bởi vì các rào cản cấm cản phi thuế quan cũng có nghĩa là một vài sản phẩm
không nhập khẩu được.
Theo WTO, rất nhiều loại thuế là hợp pháp. Bên cạnh các loại thuế suất phần trăm hay
tính theo giá trị hàng, thuế nhập khẩu có thể là cụ thể (ví dụ, 1 USD mỗi kí lô) hay chọn
lựa (ví dụ 1 USD mỗi kí lô hay 10 phần trăm tùy theo cái nào lớn hơn), hay tổng hợp (1
USD cho mỗi kí lô cộng thêm 10 phần trăm). Thụy Sĩ là một ngoại lệ vì tất cả các thuế
suất của nó, ngoài trừ thuế suất bằng không, đều được diễn tả bằng các số tiền cụ thể. Các
thuế suất cụ thể thường được thiết kế để bù đắp khi sản phẩm bị áp thuế có giá quốc tế
thấp, thay cho các mức thuế biến đổi đã bị Thỏa Thuận Nông Nghiệp của WTO cấm sử
dụngi. Phương pháp này đôi khi được cho rằng là phổ biến định kiến chống nhập khẩu từ
các nhà cung cấp có chi phí thấp, phần lớn là ở các nước đang phát triển. Thuế suất tính
theo giá trị hàng có tính minh bạch hơn. Yêu cầu các thành viên cung cấp thông tin về
mức độ thu thế theo giá trị trong tổng các loại thuế suất khác cũng rất có ích.
Các hạn ngạch thuế hay các hạn ngạch thuế suất là những loại thuế suất đánh tăng trên
một doanh số hay m