Ôn tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh

Câu 1: Trình bày đối tượng ,ý nghĩa học tập môn :Học tập chính trị .Liên hệ 1.Khái niệm: Chính trị học là kh nghiên cứu đời sống chính trị của xh với tư cách là một chỉnh thểnhằm làm sangs tỏ những qui luật và tính qui luật chung nhất của chính trị; nghien cứu cơ chế tác động và những phương thức, thủ thuật chính trị để hiện thực hoá tính qui luật và những qui luật đó trong xh được tổ chức thành nhà nước. Theo Lênin: cái quan trọng nhất trong chính trị là “ tổ chức cơ quan nhà nước ”. Chính trị là: + Sự tham gia của nhân dân vào các việc của nhà nước, các định hướng của nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ, nhân dân hoạt động của nhà nước.

pdf24 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Ôn tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1: Trình bày đối tượng ,ý nghĩa học tập môn :Học tập chính trị .Liên hệ 1.Khái niệm: Chính trị học là kh nghiên cứu đời sống chính trị của xh với tư cách là một chỉnh thểnhằm làm sangs tỏ những qui luật và tính qui luật chung nhất của chính trị; nghien cứu cơ chế tác động và những phương thức, thủ thuật chính trị để hiện thực hoá tính qui luật và những qui luật đó trong xh được tổ chức thành nhà nước. Theo Lênin: cái quan trọng nhất trong chính trị là “ tổ chức cơ quan nhà nước ”. Chính trị là: + Sự tham gia của nhân dân vào các việc của nhà nước, các định hướng của nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ, nhân dân hoạt động của nhà nước. +Bất kỳ vấn đề xh nào cũng mang tính chính trị vì việc giải quyết nó trực tiếp hoặc gián tiếp điiêù gắn với lợi ích của giai cấp, với vấn đề quyền lực. Vậy quan điểm trên đòi hỏi ta phải tiếp cận chính trị với tư cách: -Là một hình thức hoạt đông xh đặc biệt. -Là một loạt quan hệ xh đặc thù. *Đối tượng: -Chính trị có đối tượng nghiên cứu là những tính qui luật, qui luât chung nhất trong lĩnh vực chính trị của đời sống xh. -Ngoài ra chính trị học cũng nghiên cứu cơ chế tác động, thủ thuật vận dụng những qui luật đó trong đời sống chính trị -Một hình thức hoạt động xh đối trọng liên quan dẫn đến vấn đề nhà nước: chính trị học nghiên cứu; +Mục tiêu chính trị trước mắt và những mục tiêu triển vọng mang tính hiện thực, cũng như con đường giải quyết những nghĩa vụ để đạt được mục tiêu đó. +Những phương pháp, phương tiện, thủ thuật cộng hình thức tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra. +Việc lựa chọn và sắp xếp cán bộ thích hợp để giải quyết những nghĩa vụ đó. -Một hệ thống những quan hệ xh đặc biệt liên quan đến vấn đề nhà nước: chính học nghiên cứu. +Mối quan hệ giữa các giai cấp ( thực chất là quan hệ về lợi ích chính trị mà các giai cấp theo đuổi). +Hệ thống Đảng chính trị, mối quan hệ qua lại giữa chúng dẫn đến hình thành: lý luận chung chính trị cộng kinh nghiệm hoạt động và biệc vận dụng những kinh nghiệm đó vào việc xác định Đ’. +Nhà nước và tính chất nhà nước; cơ cấu và cơ chế sử dụng quyền lực nhà nước. +Nhà nước quan hệ dân tộc và các tầng lớp xh khác nhau ( hình thành lý luận dân tộc và vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi dân tộc ). +Việc lựa chọn và sử dụng con người thích hợp để giải quyết những nghĩa vụ chính trị cụ thể. +Quan hệ giữa các quốc gia ( hình thành học thuyết chính trị quốc tế ). *Liên hệ: 1.Chức năng và nhiệm vụ chung: -Là phục vụ cuộc sống của con người. ở VN là phục vụ cho công cuộc xây dựng CNXH, góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận, các quan điểm của Đ’ chính sách của nhà nước XHCN, và ứng dụng thực tiễn để tăng cường lãnh đạo của Đảng, nâng cao vai trò quản lý của nhà nước, góp phần phát triển và hình thành VH chính trị, nhân cách chính trị cho mỗi cá nhân trong xh. 2.Nhiệm vụ cụ thể: -Với tư cách là một khoa học, chính trị học góp phần phá đúng đắn những tính qui luật và những qui luật cơ bản nhất của đời sống chính trị trong khuôn khổ một nước cũng như trên qui mô quốc tế. Trên cơ sở đó hình thành những lý luận, cơ sở khoa học về tổ chức chính trị, cải cách mô hình, cơ chế thực thị quyền lực , lý giải mói quan hệ giữa các chủ quyền chính trị. -Chính trị học góp phần luận chứng và hình thành cơ sở khoa học cho các hoạt động chính trị, cho việc hoạch định mục tiêu, chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và nhà nước, công cụ cơ sở khoa học để hình thành các chính sách và quyết định chính trị của đảng và nhà nước, cá nhân. Thẩm định các quyết định chính trị từ phương diện khoa học. ( đây là nhiệm vụ quan trọng nhất vì khi đã có cơ sở khoa học để đánh giá các chính sách của Đảng, nhà nước là đúng đắn sẽ hình thành lòng tin, thể hiện tự giác của nhân dân ).\ -Nghiên cứu để xuất cơ chế, phương thức để thực thi các chính sách và quyết định chính trị nhằm đạt được mục tiêu đề ra. -Góp phần xác định một hệ thống các quan điểm là cơ sở trong công cuộc đổi mới. ( VN xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên chính sách khoa học nào? quyền lực nhà nước thống nhất dựa trên chính sách khoa học nào? ). -Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, các nhà lãnh đạo chính trị để thực thi những mục tiêu đề ra, phấn đấu cho sự phát triển của đảng và nhà nước ta. ( Chính trị học là khoa học chân thực sẽ cung cấp cho các nhà lãnh đạo những tư chất: chạy bán chính trị, có sáng kiến và khả năng tìm tòi, có năng lực đàm thoại chính trị ... để lãnh đạo những con người, tổ chức có những tâm lý, tính chất, nhu cầu khác nhau. Ngoài ra chính trị học và các khoa học khác cũng cung cấp cho những cán bộ chính trị những tri thức thực tiễn chính trị, khoa học và nghệ thuật chính trị). Câu 2:Phân tích định nghĩa vật chất của Lê-nin.Giá trị khoa học và phương pháp luận. Đáp.Câu trả lời gồm 2 ý lớn 1) Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Những nội dung cơ bản của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin a) Vật chất là gì? +) Vật chất là phạm trù triết học nên vừa có tính trừu tượng vừa có tính cụ thể. *) Tính trừu tượng của vật chất dùng để chỉ đặc tính chung, bản chất nhất của vật chất- đó là đặc tính tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người và đây cũng là tiêu chí duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất. *) Tính cụ thể của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan của con người; chỉ có thể nhận thức được vật chất thông qua việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng vật chất cụ thể. +) Vật chất là thực tại khách quan có đặc tính cơ bản là tồn tại không phụ thuộc vào các giác quan của con người. +) Vật chất có tính khách thể- con người có thể nhận biết được vật chất bằng các giác quan. b) Ý thức là gì? ý thức là sự chép lại, chụp lại, phản ánh lại thực tại khách quan bằng các giác quan. Nhờ đó, con người trức tiếp hoặc gián tiếp nhận thức được thực tại khách quan. Chỉ có những sự vật, hiện tượng của thực tại khách quan chưa được con người nhận biết biết chứ không thể không biết. c) Nội dung thứ ba được suy ra từ hai nội dung trên để xác định mối quan hệ biện chứng giữa thực tại khách quan (vật chất) với cảm giác (ý thức). Vật chất (cái thứ nhất) là cái có trước, tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức và quy định ý thức. Ý thức (cái thứ hai) là cái có sau vật chất, phụ thuộc vào vật chất và như vậy, vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan của ý thức, là nguyên nhân làm cho ý thức phát sinh. Tuy nhiên, ý thức tồn tại độc lập tương đối so với vật chất và có tác động, thậm chí chuyển thành sức mạnh vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng và được quần chúng vận dụng. 2) Ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của định nghĩa đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn. a) Định nghĩa đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng về vấn đề cơ bản của triết học. Về mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học, định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, của ý thức (khắc phục quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cổ và cận đại về vật chất). Về mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học, định nghĩa khẳng định ý thức con người có khả năng nhận thức được thế giới vật chất (chống lại thuyết không thể biết và hoài nghi luận). Thế giới quan duy vật biện chứng xác định được vật chất trong lĩnh vực xã hội; đó là tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội, kinh tế quy định chính trị v.v và tạo cơ sở lý luận cho các nhà khoa học tự nhiên, đặc biệt là các nhà vật lý vững tâm nghiên cứu thế giới vật chất. b) Định nghĩa đưa lại phương pháp luận biện chứng duy vậtcủa mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức. Theo đó, vật chất có trước ý thức, là nguồn gốc và quy định ý thức nên trong mọi hoạt động cần xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng các quy luật vốn có của sự vật, hiện tượng; đồng thời cần thấy được tính năng động, tích cực của ý thức để phát huy tính năng động chủ quan nhưng tránh chủ quan duy ý chí mà biểu hiện là tuyệt đối hoá vai trò, tác dụng của ý thức, cho rằng con người có thể làm được tất cả mà không cần đến sự tác động của các quy luật khách quan, các điều kiện vật chất cần thiết. Câu 3: Trình bày 2 nguyên lí của phép biện chứng duy vật. Ý nghĩa ,phương pháp luận. 1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến a. Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến Thế giới là một chỉnh thể thống nhất, các sự vật, hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau. - Khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới. - Khái niệm mối liên hệ phổ biến: Là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới mà ở đó các sự vật, hiện tượng hoặc các mặt bên trong sự vật có mối liên hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng, quy định lẫn nhau, tác động, chuyển hóa lẫn nhau. b. Tính chất của mối liên hệ Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người. Chẳng hạn, Hêghen đứng trên lập trường duy tâm khách quan đã cho rằng, “Ý niệm tuyệt đối là nền tảng của mối liên hệ”, còn George Berkeley người theo lập trường duy tâm chủ quan cho rằng, “cảm giác là nền tảng của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng”.Trái lại, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, tính chất của mối liên hệ phổ biến bao gồm: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng. - Tính khách quan của mối liên hệ Mối liên hệ mang tính khách quan. Bởi các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới đa dạng, phong phú, khác nahu. Song chúng đều là những dạng vật thể của thế giới vật chất. Và tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ. Nhờ có tính thống nhất đó, các sự vật, hiện tượng, không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà trong sự tác động qua lại chuyển hóa lẫn nhau. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động của chúng với các sự vật, hiện tượng khác. - Tính phổ biến của các mối liên hệ Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nằm ngoài mối liên hệ. Mối liên hệ cũng có ở mọi lĩnh vực : Tự nhiên, xã hội, tư duy. Thứ hai, mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức riêng biệt, tùy theo điều kiện nhất định. Nhưng dù dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất .- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ Có rất nhiều loại liên hệ khác nhau : + Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài. + Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. + Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu. + Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản. + Mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến... Chính tính đa dạng trong quá trình vận động, tồn tại và phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy, trong sự vật có nhiều mối liên hệ, chứ không phải có một cặp mối liên hệ. Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự quy định, chuyển hóa lẫn nhau giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt của một sự vật. Mối liên hệ này giữ vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, mối liên hệ này nhìn chung không giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự vật. Và nếu có nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mới thực hiện được. Các cặp mối liên hệ khác nhau cũng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Đương nhiên mỗi cặp liên hệ có đặc trưng riêng. Tuy nhiên, vai trò quyết định của các mối liên hệ trong từng cặp phụ thuộc vào quan hệ hiện thực xác định. Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, vì mỗi loại liên hệ chỉ có một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của chính các sự vật. Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có các tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình. c. Ý nghĩa phương pháp luận. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận cuả quan điểm toàn diện. - Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng với tất cả các mặt, các mối liên hệ ; đồng thời phải đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối liên hệ ; nắm được mối liên hệ chủ yếu có vai trò quyết định. - Quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải nhận thức đầy đủ các mối liên hệ của sự vật, nắm được bản chất bên trong, trực tiếp, đồng thời phải nhận thức được không gian, thời gian, điều kiện cụ thể của sự tồn tại và xuất hiện các mối liên hệ, trên cơ sở đó mới nắm bắt được xu hướng biến đổi của các sự vật, hiện tượng. - Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm phiến diện là cách xem xét từng mặt, từng mối liên hệ tách rời nhau, không thấy được mối liên hệ nhiều vẻ, đa dạng của sự vật. 2. Nguyên lý về sự phát triển a. Khái niệm “phát triển” Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Như vậy, phát triển không phải là bản thân sự vận động, phát triển chỉ là khuynh hướng tất yếu của sự vận động, phát triển nó chỉ khái quát những sự vận động đi lên, đó là quá trình không ngừng gia tăng về trình độ, về kết cấu phức tạp của sự vật và do đó làm nảy sinh tính quy định cao hơn về chất. Nói cách khác, phát triển là quá trình làm xuất hiện cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ, cái lạc hậu. b. Nội dung của nguyên lý phát triển - Phép biện chứng duy vật khẳng định, đổi mới là quá trình diễn ra không ngừng trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người. + Trong giới hữu sinh sự phát triển biểu hiện ở khả năng tăng cường thích nghi của cơ thể trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng sản sinh và hoàn thiện chính mình, ở khả năng hoàn thiện về quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường. + Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức, cải biến tự nhiên và xã hội theo quy luật thông qua hoạt động thực tiễn của con người... + Trong tư duy, sự phát triển biểu hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn về tự nhiên, xã hội và nhận thức chính bản thân con người. - Phép biện chứng duy vật khẳng định, phát triển là khuynh hướng chung của các sự vật, hiện tượng nhưng không diễn ra một cách trực tiếp mà nó quanh co, phức tạp theo hình “xoáy ốc”, trong đó có thể có những bước thụt lùi tương đối. - Ngược lại, quan điểm siêu hình xem xét sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay giảm đi tương đối, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật. Những người theo quan điểm siêu hình còn coi tất cả chất của sự vật không có sự thay đổi gì trong quá trình tồn tại của chúng. Sự vật ra đời với những tính chất như thế nào thì toàn bộ quá trình tồn tại của nó vẫn được giữ nguyên hoặc nếu có thay đổi nhất định về chất thì cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín. Họ cũng coi sự phát triển cũng chỉ là sự thay đổi về mặt lượng của từng loại mà sự vật đang có, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới. Như vậy, sự phát triển được xem như một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước thụt lùi, quanh co, phức tạp. - Về nguồn gốc của sự phát triển, theo quan điểm duy tâm là từ những lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức của con người. Hêghen cho rằng, sự phatys triển của giới tự nhiên, của xã hội đều đã được thiết định trước từ sự vận động của ý niệm tuyệt đối. - Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật, từ cấu trúc của sự vật, do mâu thuẫn bên trong của sự vật quy định. Do đó, phát triển là tự thân phát triển, là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật. Phát triển là quá trình cái mới ra đời phủ định cái cũ, đồng thời kế thừa nhũng giá trị của cái cũ, tạo ra vòng khâu liên hệ giữa cái cũ và cái mới, tạo ra khuynh hướng phát triển theo đường xoáy ốc, nghĩa là trong quá trình phát triển dường như có sự quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên một cơ sở cao hơn. c. Những tính chất cơ bản của sự phát triển - Sự phát triển mang tính khách quan. Bởi vì nguốn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản sự vật, do mâu thuẫn trong chính sự vật quy định. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Sự phát triển như vậy không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức của con người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn luôn phát triển theo khuynh hướng chung của thế giới vật chất. - Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến ở đây được hiểu là nó diễn ra trong mọi lĩnh vực: Tự nhiên, xã hội và tư duy. Ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. - Sự phát triển còn mang tính đa dạng, phong phú. Khuynh hướng phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng. Song mỗi sự vật, hiện tượng lại có quá trình phát triển khác nhau, tồn tại ở không gian và thời gian khác nhau, sự phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát triển, sự vật còn chịu tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của các điều kiện có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm sự vật thụt lùi. d. Ý nghĩa phương pháp luận Nghiên cứu về sự phát triển giúp chúng ta rút ra được phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới. - Giới tự nhiên, xã hội và tư duy đều trong quá trình vận động và phát triển không ngừng. Bản chất khách quan của các quá trình hiện thực đòi hỏi nhận thức muốn phản ánh đúng hiện thực khách quan thì cần phải có quan điểm phát triển. - Quan điểm phát triển yêu cầu khi xem xét các sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng biến đổi, chuyển hóa của chúng. - Quan điểm phát triển đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, việc tuyệt đối hóa tri thức là kết quả của sự nhận thức về sự vật trong một hoàn cảnh cụ thể và xem xét nó như là tri thức đúng cho cả quá trình phát triển của sự vật. - Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nhận thức các sự vật, hiện tượng trong thực tế, và xem đó là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó, hoạt động thực tiễn là quá trình tìm ra mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn và tìm ra giải pháp để giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển. - Quan điểm phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của chúng : cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi ; cái mới, cái tiến bộ sẽ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Phải có thái độ lạc quan tin tưởng ở sự tất thắng của cái mới, cái tiến bộ. Câu 4:Trình bày ND quy luật thống nhất các mặt đấu tranh.Ý nghĩa phương pháp luận. * Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập a) Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn - Mâu thuẫn: Là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt của sự vật, hiện tượng hoặc giữa các