TÓM TẮT
Hội chứng hoại tửgan tụy cấp tính (AHPNS)đangđược xem là bệnh nguy hiểm trên
tôm nuôi.ỞViệt Nam, bệnhđược phát hiện vào năm 2010 và gây thiệt hạiđáng kểcho
tôm nuôi ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu được thực hiện nhằm
phân lập, định danh và xác định khả năng gây hoại tử gan tụy của chủng vi khuẩn
được phân lập từ tôm thu ở những ao nuôi tôm thâm canh tại tỉnh Bạc Liêu có dấu
hiệu lâm sàng của bệnh hoại tửgan tụy nhưgan tụy teo dai, ruột rỗng kèm theo một số
biếnđổi mô bệnh học trên vùng gan tụy nhưsựthoái hóa cấp tính của các tếbào gan,
sựtập trung của tếbào máu cùng với nhiễm khuẩn thứcấp. Các chủng vi khuẩn phân
lậpđượcđều là vi khuẩn Gram âm, hình que ngắn, có thểdiđộng, dương tính với các
chỉtiêu oxidase và catalase, lên menđường trongđiều kiện hiếu khí và kỵkhí, có khả
năng phát triển trên môi trường thiosulfate citrate bile salt với khuẩn lạc màu xanh,
tròn, lồi vàđường kính 2-3 mm. Cả3 chủngđều có khảnăng gây tan huyết dạng beta.
Các chủng vi khuẩnđượcđịnh danh là Vibrio parahaemolyticus (99,9% ID) bằng kit
API 20E (BioMerieux). Kết quảgây cảm nhiễm trên tôm thẻchân trắng (Litopenaeus
vannamei) khỏe với bốn nghiệm thức (tiêm 1,5% NaCl, 104 CFU/g, 105CFU/g,
106CFU/g) cho thấy vi khuẩn này có khảnăng gây hoại tửgan tụyởnghiệm thức tiêm
105 CFU/g (sau 9 ngày) và 106 CFU/g (sau 6 ngày) với dấu hiệu bệnh lý và mô bệnh
học giống nhưtôm bệnh thu từtựnhiên.
9 trang |
Chia sẻ: nguyenlinh90 | Lượt xem: 810 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân lập và xác định khả năng gây hoại tử gan tụy của vi khuẩn vibrio paraheamolyticus phân lập từ tôm nuôi ở Bạc Liêu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 39 (2015): 99-107
99
PHÂN LẬP VÀ XÁC ĐỊNH KHẢ NĂNG GÂY HOẠI TỬ GAN TỤY CỦA
VI KHUẨN Vibrio paraheamolyticus PHÂN LẬP TỪ TÔM NUÔI Ở BẠC LIÊU
Nguyễn Trọng Nghĩa1, Đặng Thị Hoàng Oanh1, Trương Quốc Phú1 và Phạm Anh Tuấn2
1 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ
2 Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Thông tin chung:
Ngày nhận: 01/08/2014
Ngày chấp nhận: 19/08/2015
Title:
Isolation and determination
of the ability to cause acute
hepatopancreatic necrosis
syndrome of Vibrio
parahaemolitycus bacteria
isolated from cultured
shrimp in Bac Lieu province
Từ khóa:
Hội chứng hoại tử gan tụy
cấp tính, Vibrio
parahaemolyticus, tôm thẻ
chân trắng
Keywords:
Acute hepatopancreatic
necrosis syndrome, Vibrio
parahaemolyticus,
Litopenaeus vannamei
ABSTRACT
Acute hepatopancreatic necrosis syndrome (AHPNS) on shrimp is considered as a
dangerous disease on shrimp. In Vietnam, the disease appeared in 2010 and caused
significant damage to shrimp farming in the Mekong Delta. The study was carried out
to isolate, identify and determine the ability to cause AHPNS of bacterial strains
isolated from shrimp collected in intensive shrimp ponds in Bac Lieu province which
displayed typical pathology of AHPNS such as hepatopancreatic atrophy, empty gut
and showed hepatopancreaic changes including disfunction of hepatopancreatic cells,
hemocytic infiltration and bacterial infection in histopathological diagnosis. The
isolated bacteria were gram-negative, short rod-shaped, motile, positive with oxidase
and catalase, fermentation of glucose in both aerobic and anaerobic conditions,
colonies grow on thiosulfate citrate bile salt agar with green colored, round, convex
and 2-3 mm in diameter. All 3 strains revealed beta hemolysis. The bacteria were
identified as Vibrio parahaemolyticus (99.9% ID) by using API 20E kit (BioMerieux).
Results of experimental infection in the white leg shrimp (Litopenaeus vannamei) at
104 CFU/g, 105CFU/g, 106CFU/g showed that bacteria are capable of causing
AHPNS pathology similar in shrimp collected from cultured ponds in the groups
injected with 105CFU/g (after 9 days) and 106CFU/g (after 6 days).
TÓM TẮT
Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS) đang được xem là bệnh nguy hiểm trên
tôm nuôi. Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện vào năm 2010 và gây thiệt hại đáng kể cho
tôm nuôi ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu được thực hiện nhằm
phân lập, định danh và xác định khả năng gây hoại tử gan tụy của chủng vi khuẩn
được phân lập từ tôm thu ở những ao nuôi tôm thâm canh tại tỉnh Bạc Liêu có dấu
hiệu lâm sàng của bệnh hoại tử gan tụy như gan tụy teo dai, ruột rỗng kèm theo một số
biến đổi mô bệnh học trên vùng gan tụy như sự thoái hóa cấp tính của các tế bào gan,
sự tập trung của tế bào máu cùng với nhiễm khuẩn thứ cấp. Các chủng vi khuẩn phân
lập được đều là vi khuẩn Gram âm, hình que ngắn, có thể di động, dương tính với các
chỉ tiêu oxidase và catalase, lên men đường trong điều kiện hiếu khí và kỵ khí, có khả
năng phát triển trên môi trường thiosulfate citrate bile salt với khuẩn lạc màu xanh,
tròn, lồi và đường kính 2-3 mm. Cả 3 chủng đều có khả năng gây tan huyết dạng beta.
Các chủng vi khuẩn được định danh là Vibrio parahaemolyticus (99,9% ID) bằng kit
API 20E (BioMerieux). Kết quả gây cảm nhiễm trên tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vannamei) khỏe với bốn nghiệm thức (tiêm 1,5% NaCl, 104 CFU/g, 105CFU/g,
106CFU/g) cho thấy vi khuẩn này có khả năng gây hoại tử gan tụy ở nghiệm thức tiêm
105 CFU/g (sau 9 ngày) và 106 CFU/g (sau 6 ngày) với dấu hiệu bệnh lý và mô bệnh
học giống như tôm bệnh thu từ tự nhiên.
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 39 (2015): 99-107
100
1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Với hơn 700.000 ha diện tích đất ngập mặn,
Việt Nam được xem là quốc gia có nhiều tiềm năng
phát triển trong nghề nuôi tôm nước lợ và hiện
đang là một trong 5 quốc gia đứng đầu về xuất
khẩu tôm trên thế giới. Trong đó, khu vực Đồng
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được đánh giá là
nơi có tiềm năng nuôi tôm lớn nhất nước, đã và
đang phát triển nhanh trong những năm gần đây.
Theo thống kê của Tổng cục Thủy sản (2013),
trong năm 2012, toàn quốc có 30 tỉnh thành nuôi
tôm nước lợ với diện tích 657.523 ha và sản lượng
đạt 446.424 tấn trong đó khu vực ĐBSCL chiếm
90,61% diện tích, 75,2% sản lượng với 595.723 ha
và 358.477 tấn. Tuy nhiên, cùng với mức độ thâm
canh hóa ngày càng cao và sự gia tăng về diện tích
thì tình dịch bệnh diễn ra ngày càng nhiều trên diện
rộng và khó kiểm soát, đe dọa nghiêm trọng đến
năng suất và sự phát triển bền vững của nghề nuôi
tôm. Bệnh tôm được báo cáo là có ảnh hưởng rất
lớn đến nghề nuôi tôm toàn thế giới (Walker and
Mohan, 2009; Lightner et al., 2012; Flegel, 2012).
Theo Đặng Thị Hoàng Oanh và Nguyễn Thanh
Phương (2012), trong nhiều năm qua ở khu vực
ĐBSCL hiện tượng chết hàng loạt trên tôm nuôi
chủ yếu là bệnh vi-rút trong đó nguy hiểm nhất là
vi-rút gây bệnh đốm trắng (White Spot Syndrome
virus – WSSV). Đặc biệt với sự xuất hiện của hội
chứng hoại tử gan tụy cấp tính (Acute
hepatopancreatic nerosis syndrome - AHPNS) hay
còn gọi là Hội chứng chết sớm (Early mortality
syndrome) từ đầu năm 2011 đã gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nghề nuôi tôm trong toàn vùng.
Theo Lighner et al. (2012), tôm bệnh thường có
một số đặc điểm mô bệnh học đặc trưng như: (i)
thoái hoá cấp tính của các ống gan tụy với sự rối
loạn về chức năng của tế bào E, R và F; (ii) nhân tế
bào trương to, tế bào bị hoại tử rơi vào trong lòng
ống gan tụy. Ở giai đoạn cuối, phát hiện có hiện
tượng tập trung của các tế bào máu và sự phát triển
của tác nhân vi khuẩn thứ cấp chủ yếu là nhóm vi
khuẩn Vibrio trong vùng gan tụy, đặc biệt là ở
những ống gan tụy bị hoại tử và thoái hoá (Flegel,
2012). Tác nhân gây nên AHPNS được xác định là
do chủng vi khuẩn Vibrio parahemolyticus duy
nhất được phân lập từ dạ dày tôm bệnh hoại tử gan
tụy cấp thu tại ao nuôi tôm ở tỉnh Trà Vinh và khả
năng gây bệnh của chủng vi khuẩn này được xác
định bằng phương pháp ngâm (Loc et al., 2013).
Tuy nhiên, vi khuẩn V. parahaemolyticus đã được
phân lập với tần số cao từ gan tụy của tôm bệnh
hoại tử gan tụy tại một số tỉnh ĐBSCL (Quảng
Trọng Phát, 2013; Nguyễn Ngọc Thạch, 2013;
Nguyễn Khắc Thoáng, 2013). Trong bài báo này,
chúng tôi trình bày kết quả phân lập và xác định
khả năng gây hoại tử gan tụy cấp tính bằng phương
pháp tiêm vi khuẩn V. parahaemolyticus phân lập
từ gan tụy tôm AHPNS thu tại xã Vĩnh Hậu, huyện
Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu.
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp thu và phân lập vi khuẩn
từ mẫu tôm bệnh
Mẫu tôm bệnh còn sống được thu tại 3 ao nuôi
thuộc xã Vĩnh Hậu, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc
Liêu. Trước khi phân lập vi khuẩn, bề mặt ngoài
của tôm được khử trùng bằng cồn 70 và lau sạch.
Dùng pen tách bỏ phần giáp đầu ngực, khử trùng
bề mặt gan tụy tôm rồi dùng nhíp tiệt trùng lấy một
ít gan tụy tôm phết đều lên lame sạch có sẵn một
giọt dung dịch Davidsion (không có glacial acetic
acid), để khô ở nhiệt độ phòng, sau đó cố định
trong dung dịch 1% acetic acid, rồi nhuộm Gram.
Kế đến, dùng que cấy tiệt trùng lấy một ít mẫu gan
tụy cấy lên đĩa nutrient agar (NA, Merck) và môi
trường thiosulfate citrate bile salt sucrose (TCBS,
Merck). Đĩa cấy được ủ 24 giờ ở 28C. Các chủng
vi khuẩn được nuôi tăng sinh trong môi trường
nutrient broth (NB, Merck) (có bổ sung 1.5%
NaCl) trong 24 giờ ở 28C. Sau đó được bổ sung
thêm 25% glycerol và giữ ở - 80C.
2.2 Phương pháp định danh vi khuẩn
Các chỉ tiêu hình thái, sinh lý sinh hóa
được chọn để định danh vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus được trình bày trong Bảng 1.
Hình dạng kích thước và tính ròng của vi khuẩn
được xác định bằng phương pháp nhuộm Gram
(Barrow and Feltham, 1993). Tính di động của vi
khuẩn được quan sát bằng cách nhỏ một giọt nước
cất lên lame, trải đều lên lame một ít vi khuẩn, đậy
bằng lamella và quan sát bằng kính hiển vi ở vật
kính 40X. Các đặc điểm sinh lý và sinh hóa được
xác định dựa theo cẩm nang của Cowan and Steels
(Barrow and Felthham, 1993) kết hợp với sử dụng
kit API 20E (BioMerieux, Pháp).
2.3 Chuẩn bị vi khuẩn gây cảm nhiễm
Chủng vi khuẩn gây cảm nhiễm được nuôi tăng
sinh trong môi trường NB (có bổ sung 1.5% NaCl)
trong 24 giờ ở 28C. Sau đó, ly tâm 7500
vòng/phút trong 5 phút, rửa 2 lần bằng dung dịch
1.5% NaCl. Mật độ vi khuẩn được xác định bằng
máy so màu quang phổ ở bước sóng 610 nm kết
hợp với phương pháp đếm số khuẩn lạc trên môi
trường thạch (CFU/ml). Sau đó pha loãng vi khuẩn
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 39 (2015): 99-107
101
trong dung dịch 1.5% NaCl để đạt các mật độ 104,
105, 106 CFU/ml.
2.4 Gây cảm nhiễm
Thí nghiệm cảm nhiễm được thực hiện tại
phòng cảm nhiễm, bộ môn Bệnh học Thủy sản,
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ sử dụng
keo nhựa có thể tích 5 lít. Các keo nhựa được khử
trùng bằng chlorine, rửa bằng xà phòng và nước
sạch, phơi để loại chlorine. Nước sử dụng thí
nghiệm có độ mặn 15‰ được khử trùng bằng
chlorine (nồng độ 30 ppm), sục khí liên tục để loại
chlorine. Tôm sử dụng cho thí nghiệm cảm nhiễm
là tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) có
trọng lượng khoảng 2 g/con, khỏe mạnh được sản
xuất tại Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
Tôm có màu sắc sáng, phản ứng nhanh, không có
tổn thương bên ngoài, gan tụy khỏe, ruột đầy. Tôm
được bố trí 30 con/nghiệm thức, chia thành 10 keo
nhựa mỗi keo có 3 con tôm. Có 4 nghiệm thức
được bố trí, như sau: (1) đối chứng, tiêm dung dịch
1.5% NaCl; (2) tiêm vi khuẩn nồng độ 104
CFU/con; (3) tiêm vi khuẩn nồng độ 105 CFU/con;
(4) tiêm vi khuẩn nồng độ 106 CFU/con. Mỗi con
tôm được tiêm 50µl dung dịch vi khuẩn ở đốt bụng
thứ 3. Thí nghiệm được theo dõi trong 10 ngày,
trong quá trình thí nghiệm cho tôm ăn bằng thức ăn
viên theo nhu cầu. Mẫu tôm trước khi cảm nhiễm,
sau 3, 6, 9 ngày cảm nhiễm được thu để phân tích
mô bệnh học.
2.5 Phương pháp mô học
Mẫu tôm thí nghiệm được thu và cố định trong
dung dịch Davidson’s AFA (theo tỉ lệ 1 phần cơ/10
phần dung dịch Davidson’s) khoảng 48 giờ sau đó
chuyển sang cồn 70o theo phương pháp của
Lightner (1996). Sau khi cố định, mẫu tôm được
cắt tỉa định hướng. Trước khi tiến hành đúc khối
mẫu được khử nước lần lượt qua các dung dịch
70%, 80%, 95%, 100% ethyl alcohol và xylen. Sau
đó mẫu được cắt ra thành từng băng dài, cho vào
nước ở nhiệt độ 45-50C làm cho parafin căng ra
và dán lên lam. Tiêu bản sau đó được nhuộm với
thuốc nhuộm Haematoxylin và Eosin (H&E), quan
sát và chụp ảnh dưới kính hiển vi ở các vật kính
10X, 40X và 100X.
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Dấu hiệu bệnh lý của tôm thu từ ao nuôi
Tôm bệnh hoạt động chậm chạp, bỏ ăn, lờ đờ
và tắp mé. Khi tách bỏ lớp vỏ đầu ngực, quan sát
thấy gan tụy teo, dai, nhạt màu, ruột rỗng (Hình 1).
Hình 1: Tôm có dấu hiệu gan tụy teo, dai (A) và ruột rỗng (B)
Các dấu hiệu ghi nhận được tương tự trong mô
tả của Lightner et al. (2012) và Flegel et al. (2012)
về các dấu hiệu bệnh lý của tôm khi mắc phải hội
chứng hoại tử gan tụy cấp tính. Lightner (2012)
cho biết tôm bệnh hoại tử gan tụy trong ao nuôi
thường có một số các dấu hiệu như tôm chết đáy,
bỏ ăn, gan tụy teo, dai, nhạt màu, ruột rỗng và có
hiện tượng mềm vỏ. Tôm nuôi có thể chết đột ngột
với tỉ lệ cao trong thời gian ngắn sau khi xuất hiện
các dấu hiệu bệnh đặc biệt khoảng sau 2 -3 ngày
(Lê Hồng Phước và ctv., 2012).
Khi quan sát các mẫu phết kính gan tụy nhuộm
Gram của những mẫu tôm bệnh, phát hiện nhiều vi
khuẩn gram âm, hình que trên vùng mô phết kính
(Hình 2). Quan sát tiêu bản kính phết gan tụy tôm
bệnh cho thấy có sự biến đổi cấu trúc của mô gan
tụy, số lượng các không bào rất ít, các tế bào gan
thoái hóa và rơi vào lòng ống, xuất hiện hiện tượng
melamin hóa ở vùng gan hoại tử và xuất hiện của
các tế bào máu quanh các cụm vi khuẩn trong vùng
bị hoại tử (Hình 3).
A B
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 39 (2015): 99-107
102
Hình 2: Kính phết gan tụy tôm khỏe (A) và tôm bệnh với các cụm vi khuẩn gram âm hình que ngắn
(B) (100X)
Các đặc điểm mô bệnh học được ghi nhận
tương tự như mô tả chi tiết trong định nghĩa bệnh
hoại tử gan tụy cấp tính của Lightner et al. (2012).
Trong nghiên cứu của Lê Hữu Tài và ctv. (2012)
khi phân tích mô bệnh học và siêu cấu trúc của tôm
hoại tử gan tụy ở khu vực ĐBSCL thấy tôm bệnh
có dạng hoại tử tương ứng với dấu hiệu gan tụy
teo, dai và sậm màu. Diễn biến về bệnh lý học của
hội chứng hoại tử gan tụy là tình trạng thoái hóa
cấp tính của gan tụy kèm theo sự giảm hoạt động
của tế bào E, rối loạn chức năng của các tế bào B,
F và R, dễ thấy những tế bào có nhân trương to,
các tế bào bị bong tróc và rơi vào lòng ống gan tụy
và giai đoạn cuối là sự tập trung của các tế bào
máu ở giữa ống gan tụy và nhiễm khuẩn thứ cấp
kèm theo hiện tượng melanin hóa (Flegel, 2012).
Hình 3: Gan tụy tôm bệnh có sự biến đổi cấu trúc của mô gan tụy (A) (10X). Các tế bào gan thoái hóa
và rơi vào lòng ống, các tế bào máu tập trung quanh các cụm vi khuẩn trong vùng bị hoại tử (B) (40X)
3.2 Phân lập vi khuẩn và định danh vi khuẩn
Ba chủng vi khuẩn phân lập được từ gan tụy
tôm bệnh của 3 thu mẫu được đặt tên là BL1, BL2
và BL3. Kết quả quan sát và phân tích các đặc
điểm hình thái, sinh lý và sinh hóa của các chủng
vi khuẩn được phân lập từ tôm bệnh được trình bày
ở Bảng 1. Các chủng vi khuẩn phát triển trên môi
trường TCBS có khuẩn lạc màu xanh, tròn, lổi,
đường kính 2-3 mm (Hình 4). Những khuẩn lạc
này khi được cấy truyền sang đĩa môi trường
nutrient agar (NA, Merck) (có bổ sung 1.5% NaCl)
thì khuẩn lạc phát triển có màu kem với hình dạng
và kích thước khuẩn lạc tương tự như trên môi
trường TCBS. Tất cả các chủng đều có khả năng
gây tan huyết dạng beta khi cấy lên môi trường
thạch máu (Blood agar base, Merck) có chứa 5%
máu cừu (Công ty Nam Khoa, Thành phố Hồ Chí
Minh) (Hình 4).
A B
A B
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 39 (2015): 99-107
103
Hình 4: (A) Khuẩn lạc trên môi trường TCBS; (B) tan huyết dạng beta trên môi trường máu
Chúng là vi khuẩn gram âm, hình que (Hình 5),
có khả năng di động trong môi trường lỏng, phản
ứng dương tính với oxidase, catalase, có khả năng
lên men đường trong điều kiện kị khí và hiếu khí
(Hình 5). Tất cả các chủng đều có phản ứng
decarboxylase dương tính với lysine và ornithine,
không sinh ureaza nhưng sinh idole, acetoin và
gelatin, đều sử dụng đường glucose và manitol.
Hình 5: A.Vi khuẩn gram âm, hình que ngắn (100X). B. Vi khuẩn lên men glucose hiếu khí và kị khí
Kết quả trên cho thấy cả 3 chủng vi khuẩn phân
lập từ tôm bệnh thu được có những đặc tính chung
của nhóm vi khuẩn Vibrio là gram âm, hình que
ngắn, có thể di chuyển trong môi trường lỏng, cho
phản ứng catalase và oxidase dương tính, có khả
năng lên men glucose trong điều kiện kị khí và
yếm khí, mọc trên môi trường TCBS (Buller,
2004). Dựa vào đặc điểm hình thái, sinh lý, sinh
hóa và kết quả kiểm tra bằng kit API 20E các
chủng vi khuẩn này được định danh là vi khuẩn
Vibrio parahaemolyticus. Các đặc điểm tương tự
cũng được ghi nhận trong nghiên cứu định danh
các chủng vi khuẩn phân lập được từ tôm bệnh
hoại tử gan tụy thu ở một số tỉnh thuộc khu vực
ĐBSCL (Quãng Trọng Phát, 2013; Nguyễn Ngọc
Thạch, 2013; Nguyễn Khắc Thoáng, 2013).
V. parahaemolyticus tồn tại phổ biến ở hệ sinh thái
nước mặn và vùng cửa sông trong đó có các ao
nuôi thủy sản, đặc biệt là ở các nước khu vực
Đông Nam Á (Wong et al., 2000). Đặc biệt,
V. parahaemolyticus có khả năng phát triển tốt hơn
so với các loài vi khuẩn khác trong điều kiện nhiệt
độ và độ mặn tương đối cao (Williams and Larock,
1985). Chúng có thể tồn tại tự do trong môi trường
nước và nền đáy, bám trên mặt ngoài và xâm nhập
vào bên trong cơ thể của các động vật phù du, cá
và giáp xác (Kaneko and Colwell, 1973; Kaneko
and Colwell, 1975). Kết quả điều tra về thành phần
A B
A B
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 39 (2015): 99-107
104
vi khuẩn trong 24 mẫu nước thu tại cửa sông
Coreaú, vùng Đông Bắc Brazil phát hiện có sự
chiếm đa số của vi khuẩn này (Renata et al., 2010).
Ngoài ra, còn phát hiện được trên gan tụy tôm sú
bệnh thu ở Uran Maharashira, Ấn Độ với các dấu
hiệu bệnh lý như chậm lớn, lờ đờ, cơ thể chuyển
sang màu đỏ và chết (Abhay et al., 2003).
V. parahaemolyticus cũng được ghi nhận cùng với
V. harveyi và V. vulnificus đã gây chết tôm nuôi ở
Thái Lan (Nash et al., 1992), Philiphine (Lavilla –
Pitogo et al., 1998), Ấn Độ (Jayasree et al., 2006),
liên quan đến một số bệnh như nhiễm khuẩn cục
bộ, nhiễm khuẩn trên gan tụy trên tôm sú, hội
chứng đỏ thân và mềm vỏ trên tôm (Lightner,
1996). Gần đây, vi khuẩn này được phát hiện với
tần số xuất hiện cao khi phân lập trên gan tụy tôm
hoại tử gan tụy cấp tính thu tại tỉnh Bạc Liêu, Trà
Vinh, Cà Mau và Sóc Trăng (Quãng Trọng Phát,
2013; Nguyễn Ngọc Thạch, 2013; Nguyễn Khắc
Thoáng, 2013).
Bảng 1: Đặc điếm hình thái, sinh lý, sinh hóa của vi khuẩn phân lập từ tôm AHPNS
Chỉ tiêu Chủng vi khuẩn ATCC 17802 BL1 BL2 BL3
Nhuộm Gram - - - -
Hỉnh dạng que ngắn que ngắn que ngắn que ngắn
Phát triển trên TCBS xanh Xanh xanh Xanh
Di động + + + +
Sinh catalaza + + + +
Sinh oxidaza + + + +
Phản ứng lên men yếm khí + + + +
Phản ứng lên men hiếu khí + + + +
Sinh beta – galactosidaza - - - -
Agrinine - - - -
Lysine + + + +
Ornithin - - - +
Sử dụng Citrate - + - +
Sinh H2S - - - -
Sinh ureaza - - - +
Sinh tryptophane - - - -
Sinh indole + + + +
Phản ứng Voges - Proskauer + + + +
Sinh Gelatinaza + + + +
Sử dụng đường Glucose + + + +
Manitol + + + +
Inositol - - - -
Sorbotol - - - -
Rhamnose - - - -
Sucrose + + + -
Melibiose - - - -
Amygdalin + + + +
Arabinose - - - -
Ghi chú: (+) dương tính, (-) âm tính
3.3 Khả năng gây hoại tử gan tụy của vi
khuẩn V. parahaemolyticus phân lập từ gan tụy
tôm AHPNS
Kết quả gây cảm nhiễm trên tôm thẻ chân trắng
(L. vannamei) khỏe với các nghiệm thức tiêm vi
khuẩn và nghiệm thức đối chứng (tiêm dung
dịch 1.5% NaCl) cho thấy vi khuẩn này có khả
năng gây hoại tử gan tụy ở nghiệm thức tiêm
105 CFU/con (sau 9 ngày) và 106 CFU/con (sau 6
ngày) (Bảng 2).
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 39 (2015): 99-107
105
Bảng 2: Mô học mẫu tôm cảm nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus bằng phương pháp tiêm
Ngày sau khi
tiêm vi khuẩn
Nghiệm thức
Tiêm dung dịch
1.5% NaCl
Tiêm vi khuẩn (104
CFU/con)
Tiêm vi khuẩn
(105 CFU/con)
Tiêm vi khuẩn
(106 CFU/con)
0 - - - -
3 - - - -
6 - - - +
9 - - + +
Ghi chú: (-) không có dấu hiệu AHPNS; (+) một phần gan tụy có dấu hiệu APHNS
Hình 6: Mô học tôm gây cảm nhiễm V. parahemolyticus. (A & B) Gan tụy tôm ở nghiệm thức đối
chứng (A: 10X & B: 40X). (C) Gan tụy tôm tiêm V. parahemolyticus sau 3 ngày có dấu hiệu teo ống
gan tụy, số lượng tế bào B, F và R giảm nhiều (10X). (D) Gan tụy tôm tiêm V. parahemolyticus sau 6
ngày cấu trúc của mô gan tụy biến đổi, ống gan tụy không có tế bào B, F và R, các tế bào gan thoái
hóa, rơi vào lòng ống (40X). (E) Ống gan tụy không có tế bào B, F và R và tế bào biểu mô của ống gan
tụy có nhân to bất thường (100X). (F) Gan tụy tôm tiêm V. parahemolyticus sau 9 ngày, các tế bào gan
thoái