TÓM TẮT
Từ “bài toán” có nhiều nghĩa và là một khái niệm mang tính tương đối. Có bài toán
chỉ đơn thuần một bài tập áp dụng các kiến thức vừa học, nhưng có bài toán lại đặt người
học trong một tình huống phức tạp đòi hỏi người học tìm tòi nghiên cứu phương pháp giải
riêng biệt hay đưa người học đến việc khám phá kiến thức mới.
Việc phân loại khái niệm bài toán có thể dựa trên quan điểm thực hành hay quan điểm
didactic Toán và được giải thích theo ba quan niệm lớn về dạy học là Thuyết truyền thụ,
Thuyết hành vi và Thuyết kiến tạo.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 457 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân loại khái niệm bài toán trong dạy học toán phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 - Thaùng 8/2014
93
PHÂN LOẠI KHÁI NIỆM BÀI TOÁN
TRONG DẠY HỌC TOÁN PHỔ THÔNG
NGUYỄN ÁI QUỐC(*)
TÓM TẮT
Từ “bài toán” có nhiều nghĩa và là một khái niệm mang tính tương đối. Có bài toán
chỉ đơn thuần một bài tập áp dụng các kiến thức vừa học, nhưng có bài toán lại đặt người
học trong một tình huống phức tạp đòi hỏi người học tìm tòi nghiên cứu phương pháp giải
riêng biệt hay đưa người học đến việc khám phá kiến thức mới.
Việc phân loại khái niệm bài toán có thể dựa trên quan điểm thực hành hay quan điểm
didactic Toán và được giải thích theo ba quan niệm lớn về dạy học là Thuyết truyền thụ,
Thuyết hành vi và Thuyết kiến tạo.
Từ khóa: bài toán, phân loại bài toán, khái niệm bài toán.
ABSTRACT
The word “problem” is polysemous and is a relative concept. One problem may only
be an exercise to apply the knowledge acquired, but another may expose the learner to a
complex situation which requires him to figure out a particular way of resolution or enable
him to discover new knowledge.
The classification of “problem” can be based on the practical perspective or the
didactic perspective of mathematics and can be explained in accordance with three
philosophies on the teaching and learning: transmission, behaviourism and constructivism.
Keywords: problems, categories of problems, concept of problem.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ(*)
Trong thực tế giảng dạy Toán phổ
thông, từ “bài toán” và từ “bài tập” được sử
dụng rất thường xuyên trong các sách giáo
khoa, sách bài tập, sách tham khảo Tuy
nhiên, hai khái niệm này được sử dụng một
cách tùy tiện và không dựa trên một cơ sở
nào. Đa số giáo viên và học sinh cho rằng
bài tập bao gồm các hoạt động áp dụng
kiến thức vừa học để giải quyết yêu cầu
đặt ra và bài toán là bài tập có đề bài tương
đối dài và đòi hỏi nhiều loại kiến thức để
giải quyết.
Vậy làm thế nào để phân biệt được hai
(*)TS, Trường Đại học Sài Gòn
khái niệm này? Khái niệm bài toán được
định nghĩa như thế nào? Có bao nhiêu
loại bài toán? Vai trò của mỗi loại bài toán
là gì?
2. BA QUAN NIỆM LỚN VỀ DẠY HỌC
Để làm cơ sở cho việc định nghĩa và
phân loại khái niệm bài toán, tác giả xin
điểm qua ba lý thuyết lớn về dạy học.
Trong chương trình dạy học, nếu có
một số mục tiêu cần đạt được liên quan
đến năng lực mà học sinh phải làm chủ
thì người giáo viên sẽ tự do lựa chọn
các phương tiện để đạt được các mục
tiêu đó. Vì thế, người giáo viên phải có
các chiến lược khác nhau để làm cho
94
học sinh của mình đạt được cùng một
năng lực. Các chiến lược này đã tạo cơ
hội cho lý thuyết hóa hình thành hành
ba quan niệm lớn về dạy học:
+ Thuyết truyền thụ
+ Thuyết hành vi
+ Thuyết kiến tạo.
a. Thuyết truyền thụ
Thuyết truyền thụ còn được gọi là
thuyết “đầu rỗng”, quan niệm rằng người
học không hề biết gì về tri thức mà người
dạy mong muốn truyền đạt cho họ. Người
thầy truyền đạt tri thức sao cho học sinh
tiếp nhận được và học sinh xây dựng tri
thức đó thành các biểu tượng tri thức riêng
cho mình.
[11]
Tuy nhiên, để quá trình này được thực
hiện, đòi hỏi người thầy phải trình bày các
khái niệm thật rõ ràng và học sinh thì phải
chăm chú lắng nghe những gì thầy mình
nói. Sau mỗi lần tri thức được truyền đạt,
người thầy đặt ra cho học sinh các bài tập
luyện tập, củng cố và sau đó là kiểm tra sản
phẩm (kết quả bài làm) của học sinh.
Quan niệm này cho phép dạy nhiều
học sinh cùng lúc trong một lớp học, tiết
kiệm được nhiều thời gian và do đó sẽ
không cho phép diễn ra các hoạt động tìm
tòi nghiên cứu trong tiết học mà bị cho là
phung phí thời gian.
Quan niệm này cho rằng sai lầm là
hiện tượng rất tiêu cực cần phải tránh. Sai
lầm có thể sinh ra nếu học sinh không
chăm chú nghe giảng hay không cẩn thận
khi làm bài. Sai lầm cũng có thể được quy
trách nhiệm cho người thầy nếu trình bày
kiến thức không rõ ràng hay trình bày quá
nhanh.
b. Thuyết hành vi
Thuyết hành vi với tư cách là học
thuyết quan tâm đến việc nghiên cứu các
hành vi có thể quan sát và đo được và xem
xét trí tuệ như một hộp đen [6]. Từ
“Behaviourism” trong tiếng Anh, nghĩa là
“Thuyết hành vi”, được John Broadus
Watson sử dụng lần đầu tiên vào năm 1913
trong bài báo “Psychology as the
behaviorist views it” nói về sự cần thiết
quan sát các hành vi để có thể nghiên cứu
được chúng [8, tr. 158 – 177].
[11]
Hành vi ban đầu Hộp đen Hành vi mong đợi
?
Đầu rỗng Đầu nạp đầy
95
Vào năm 1950, một khối lượng lớn
thông tin tích lũy từ các thực nghiệm
nghiên cứu đã dẫn đến việc xây dựng các
lý thuyết mới về hành vi. Các lý thuyết
hành vi mới này được kết tinh trong các
công trình nghiên cứu của B. F. Skinner.
Theo Skinner, hiệu suất của học tập
gắn liền với năm nguyên tắc sau:
1. Nguyên tắc tham gia hoạt động: chủ
thể phải xây dựng câu trả lời cho
chính mình và không được lựa chọn
câu trả lời đó trong nhiều khả năng
có sẵn như trong trường hợp trắc
nghiệm.
2. Nguyên tắc các giai đoạn nhỏ: phân
chia một vấn đề khó khăn thành các
vấn đề nhỏ để các chủ thể yếu cũng
có thể trả lời được.
3. Nguyên tắc tăng dần cấp độ khó.
4. Nguyên tắc tốc độ cá nhân: mỗi chủ
thể phải tiến lên với nhịp độ của
mình.
5. Nguyên tắc trả lời đúng: Thất bại sẽ
làm nãn chí học sinh, cho nên cần
hướng dẫn họ [10].
Thuyết hành vi quan niệm rằng không
thể tiếp cận được cấu trúc trí tuệ của một
cá thể mà chỉ tiếp cận được các hành vi có
thể quan sát được của cá thể đó. Vì vậy
điều quan trọng là chỉnh sửa hành vi của
con người bằng việc tăng cường các phản
ứng tích cực với tác nhân kích thích.
Người thầy phải xác định hành vi mới
dưới dạng mục tiêu mà học sinh phải chấp
nhận và mục tiêu được phân tích thành
những mục tiêu con theo mức độ khó tăng
dần.
Người học phải khám phá tri thức
thông qua một tình huống do người thầy
đặt ra, gồm nhiều nhiệm vụ kế tiếp nhau
cần phải thực hiện và tương ứng với các
mục tiêu con hệ thống bằng câu hỏi. Tuy
nhiên, vì sai lầm được xem là các dấu vết
khó phai cần phải tránh, nên người giáo
viên theo sát hướng dẫn người học khi thực
hiện các hoạt động, giúp học sinh giải
quyết các nhiệm vụ thông qua lời nói hay
khéo léo bằng một loạt các câu hỏi liên tiếp
nhau được soạn thảo để san bằng các khó
khăn.
Sau mỗi lần nhận được hành vi mong
muốn hay đạt được mục tiêu con, người
thầy động viên học sinh và đặt ra tiếp các
tình huống luyện tập để hành vi này được
tự động hóa. Sau đó học sinh vượt qua một
cách nhẹ nhàng mục tiêu con tiếp theo khó
hơn mục tiêu trước đó và cứ thế tiếp diễn
cho đến khi đạt được mục tiêu mong muốn.
Thực tế người học luôn trong tình
huống thành công vì các nhiệm vụ được
đặt ra phù hợp để tránh sai lầm ở họ và
được người dạy theo sát hướng dẫn. Dù
sao, nếu một sai lầm sinh ra thì đó được
xem là dấu hiệu của sự tiến triển không
thích hợp do diễn biến quá nhanh đối với
học sinh.
c. Thuyết kiến tạo
Quan niệm này ra đời từ các công trình
nghiên cứu của J. Piaget (1923), một nhà
tâm lý học người Thụy sĩ, và của J. S.
Bruner (1966), một nhà tâm lý học người
Mỹ.
Thuyết kiến tạo của Bruner dựa trên
hai nguyên tắc cơ bản sau:
1. Tri thức được người học xây dựng
một cách tích cực và không được
tiếp nhận một cách thụ động từ môi
trường.
2. Học tập là một quá trình thích ứng
dựa trên kinh nghiệm con người có
được từ thế giới xung quanh và là
một quá trình sửa đổi lâu bền [2].
96
Trái với người theo thuyết truyền thụ,
những người ủng hộ quan niệm này cho
rằng người học không có “đầu rỗng”. Theo
họ, trước khi một khái niệm được giảng
dạy, học sinh đã tự trang bị cho mình một
hệ thống giải nghĩa khái niệm đó. Những ý
tưởng mà người học tự trang bị cho mình
được gọi là các quan niệm hay biểu tượng
ban đầu.
[11]
Theo những người bảo vệ thuyết này,
cần phải lưu ý đến sự tồn tại của các biểu
tượng ban đầu và cần đưa học sinh vào tình
huống đối mặt với các bài toán. Học sinh
thử giải quyết bài toán trong khuôn khổ
làm việc theo nhóm trong đó sẽ nảy sinh
các cuộc tranh luận giữa các thành viên của
nhóm. Một trong những mục đích cuối
cùng của hoạt động này là làm nảy sinh các
mâu thuẫn và xung đột về quan niệm.
Thực vậy, để giải quyết một bài toán
đặt ra, học sinh sẽ thử sử dụng các quan
niệm của mình, mà các quan niệm này
không đầy đủ, không thích hợp, không
chính xác hay không được chấp nhận bởi
những thành viên của nhóm. Vì vậy xung
đột nảy sinh và học sinh đang ở trong pha
mất cân bằng và khi đó sẽ có một cuộc đấu
tranh chống lại các biểu tượng ban đầu. Từ
đó dẫn đến sự biến đổi hay hủy bỏ các
quan niệm ban đầu này.
Khi nhận thấy rằng các biểu tượng ban
đầu của mình là sai lầm, không đầy
đủngười học chuẩn bị xây dựng một khái
niệm mới, nghĩa là chính người học tự xây
dựng tri thức cho mình bằng sự khéo léo
của các tình huống đặt ra cho họ. Từ đó,
khái niệm mới, công cụ cần thiết để giải
quyết bài toán đặt ra, sẽ nhận lấy đầy đủ
nghĩa của nó.
Người học có vai trò rất năng động
trong quan niệm kiến tạo xã hội. Họ phải
giải quyết bài toán được giao và đồng thời
đánh giá sản phẩm của mình, nghĩa là xây
dựng tri thức của họ.
3. KHÁI NIỆM BÀI TOÁN
Khái niệm “bài toán” có rất nhiều
nghĩa và mang tính tương đối. Có bài toán
chỉ đơn thuần là một bài tập áp dụng các
kiến thức đã học, nhưng có bài toán lại đặt
người học trong một tình huống phức tạp
đòi hỏi sự phản xạ, đôi khi sáng chế ra một
phương pháp giải đặc biệt, hoặc bài toán có
thể giải được bằng nhiều hướng khác nhau
hoặc đôi khi có thể có nhiều lời giải khác
nhau hay nhiều cách khác nhau để trình
bày lời giải.
Vì thế, việc đưa ra một định nghĩa
chính thức khái niệm “bài toán” là không
cần thiết, mà điều cần làm ở đây là làm rõ
có thể được nghĩa của khái niệm này.
4. PHÂN BIỆT KHÁI NIỆM BÀI TOÁN
VÀ BÀI TẬP
Trước tiên, chúng ta lưu ý rằng trong
Cân bằng cũ Mất cân bằng
Cân bằng mới
97
quan niệm truyền thụ, các bài tập được đưa
ra cho người học sau mỗi lần tri thức được
truyền đạt để áp dụng hay để củng cố tri
thức đó, trong khi đối với quan niệm kiến
tạo xã hội, người học phải đối mặt với bài
toán tình huống cần giải quyết để khám
phá ra một tri thức mới. Vì thế, việc sử
dụng các cụm từ “bài tập” và “bài toán” dĩ
nhiên không phải là vô hại. Hai khái niệm
này chắc chắn có một số sự khác biệt mà ta
sẽ thử làm sáng tỏ dưới đây.
Trước hết, ta xác định xem một bài
toán nghĩa là gì. Theo Gérard de VECCHI
và Nicole Carmona-Magnaldi, bài toán là:
“Một tình huống ban đầu bao hàm một số
dữ liệu, áp đặt một mục đích cần đạt, buộc
xây dựng một chuỗi các hành động, huy
động một hoạt động trí tuệ, làm tham gia
một hoạt động nghiên cứu để dẫn đến kết
quả sau cùng. Kết quả này lúc khởi đầu
chưa biết và lời giải không có sẵn tức
thì”[5].
Theo Newell và Simon, có bài toán khi
chủ thể tìm cách nhận được lời giải cho
một vấn đề nào đó không có lời giải ngay
tức thì [7].
Theo D. Boukhssimi, bài toán là “một
tình huống trong đó chủ thể thử trả lời một
câu hỏi đặt ra hay hoàn thành một nhiệm
vụ được xác định, dưới ánh sáng kinh
nghiệm của mình, cũng như các thông tin
được cung cấp cho chủ thể một cách tường
minh hay không. Chủ thể không thể tìm
được câu trả lời hay hoàn thành nhiệm vụ
này mà không thực sự tìm kiếm hay nhờ
đến toán học hay khả năng trí tuệ được sử
dụng trong toán học”[9].
Theo J. Brun, “Một bài toán thông
thường được định nghĩa như một tình
huống khởi đầu có một mục đích cần đạt
được, đòi hỏi chủ thể xây dựng một chuỗi
các hành động hay phép toán để đạt được
mục đích đó. Chỉ tồn tại bài toán trong mối
quan hệ chủ thể/tình huống mà lời giải của
nó không phải bất chợt có sẵn”. [3, tr. 2]
Gérard De Vecchi và Nicole Carmona-
Magnaldi đã nhấn mạnh một trong những
đặc trưng của bài toán là “tham gia một
hoạt động nghiên cứu”[5]. Theo họ, bài
toán không phải là sự áp dụng đơn giản các
kiến thức (định lý, quy tắcđã biết) mà
bao hàm một nghiên cứu, một hiệu chỉnh
chiến lược để giải quyết bài toán đó.
Trái lại, đối với một bài tập, việc tìm
tòi nghiên cứu sẽ không hiện diện và đôi
khi là rất ít. Theo quan niệm truyền thụ,
người thầy truyền đạt tri thức rồi cho bài
tập để áp dụng tri thức đó và không mong
đợi bất kỳ nghiên cứu nào ở học sinh hơn
là việc áp dụng một quy tắc, một định lý
vừa được truyền đạt cho họ để tri thức này
được ghi nhớ tốt hơn.
Cần lưu ý rằng bài tập cũng có thể
được sử dụng trong khuôn khổ dạy học gắn
liền với một quan niệm khác với quan niệm
truyền thụ. Tuy nhiên trong quan niệm kiến
tạo xã hội, các bài tập sẽ không được đưa
ra nhằm để học sinh nắm bắt tri thức mới
mà là nhằm mục đích để luyện tập và củng
cố.
5. PHÂN LOẠI BÀI TOÁN
Các bài toán có thể được phân loại dựa
trên quan điểm thực hành hay quan điểm
didactic Toán.
a/ Phân loại thứ nhất : Nếu dựa trên
quan điểm thực hành, bài toán được phân
loại thành sáu nhóm sau:
+ Nhóm 1: gồm các bài toán đưa học
sinh vào việc xây dựng kiến thức mới, còn
được gọi là bài toán tình huống.
+ Nhóm 2: gồm các bài toán cho phép
học sinh sử dụng các kiến thức đã học, còn
98
được gọi là bài toán củng cố.
+ Nhóm 3: gồm các bài toán cho phép
học sinh mở rộng phạm vi sử dụng một
khái niệm đã học, còn được gọi là bài toán
chuyển đổi.
+ Nhóm 4: gồm các bài toán phức tạp
nhất mà học sinh phải sử dụng cùng lúc
nhiều loại kiến thức để giải quyết, còn gọi
là bài toán tích hợp hay bài toán tổng hợp.
+ Nhóm 5: gồm các bài toán mà mục
tiêu của chúng là cho phép giáo viên và
học sinh điểm lại một môn học mà họ đã
làm chủ các kiến thức của nó, còn được gọi
là bài toán đánh giá.
+ Nhóm 6: gồm các bài toán đặt học
sinh vào một tình huống nghiên cứu và
phát triển năng lực phương pháp, còn được
gọi là bài toán mở [4, tr.78–79].
b/ Phân loại thứ hai : Nếu dựa trên
quan điểm didactic Toán, bài toán được
chia thành ba nhóm bên cạnh nhóm các bài
tập áp dụng và bài tập củng cố.
+ Bài tập áp dụng và bài tập củng cố:
là những hoạt động nhằm mục đích để học
sinh áp dụng ngay các tri thức vừa học như
một quy tắc, một định lý và để củng cố các
kiến thức đã được học trước đó, tái sử dụng
chúng trong một ngữ cảnh khác.
Trong hoạt động giải bài tập áp dụng
và bài tập củng cố, người thầy xem học
sinh có sử dụng khái niệm mong muốn để
giải quyết bài tập đó hay không mà không
quan tâm hay không mong muốn thực hiện
bất cứ hoạt động tìm tòi nghiên cứu nào.
Đặc trưng của bài tập áp dụng và củng
cố:
1/ Bài toán đặt ra luôn có một lời giải.
2/ Áp dụng các kiến thức đã học.
3/ Đề bài chứa tất cả dữ liệu cần thiết
cho lời giải.
4/ Kết quả thường được trình bày dưới
dạng hình thức hay số.
Ví dụ 1: Cho một số 384,25. Chữ số
hàng chục là gì? Chữ số hàng phần chục?
Chữ số hàng đơn vị?
Bài tập trong Ví dụ 1 là bài tập áp
dụng nhằm mục đích mong muốn học sinh
áp dụng định nghĩa số thập phân mà học
sinh vừa học xong để giải quyết bài toán.
Ví dụ 2: Cho hai bài tập sau:
Bài 1. Cho tam giác đều ABC cạnh a
có đường cao AH. Tính:
a/ .AB AC ; b/ .AH AC .
Bài 2. Cho tam giác ABC có I là trung
điểm cạnh BC. Chứng minh rằng:
2
2 2 2
2
2
BC
AB AC AI .
Bài tập 1 trong Ví dụ 2 là bài tập áp
dụng tri thức học sinh vừa học là định
nghĩa tích vô hướng của hai vectơ và điều
kiện cần và đủ để hai vectơ khác 0 vuông
góc với nhau.
Bài tập 2 là bài tập củng cố các tri thức
liên quan đến bình phương vô hướng của
một vectơ, quy tắc trung điểm của một
đoạn thẳng, bình phương vô hướng của
một tổng, của một hiệu hai vectơ.
+ Bài toán phức hợp: là những bài
toán có đề bài chứa một số lượng thông tin
rất lớn được mô tả trong một đoạn văn, có
thể bao gồm một đồ thị hay một sơ đồĐể
giải loại bài toán này, học sinh phải đi qua
các giai đoạn trung gian. Các giai đoạn
trung gian này không được nêu rõ trong đề
bài dù chỉ là một chuỗi câu hỏi liên tiếp để
dẫn dắt. Vì vậy học sinh phải chia bài toán
thành những bài toán nhỏ hơn gọi là bài
toán con tương ứng với từng giai đoạn và
sử dụng nhiều khái niệm khác nhau để giải
quyết các bài toán con đó. Dĩ nhiên các
khái niệm được huy động cũng như kiểu
lời giải của từng giai đoạn đã được học
sinh biết đến.
99
Ví dụ 3: Một công ty xuất ba lô hàng
mỗi lô nặng 300kg để trang bị cho một
trường học.
Lô thứ nhất gồm 15 cái bàn và 30 cái
ghế.
Lô thứ hai gồm 25 cái bàn.
Lô thứ ba gồm 10 cái bàn, 20 cái ghế
và 5 cái tủ.
Hỏi mỗi cái bàn, mỗi cái ghế, mỗi cái
tủ nặng bao nhiêu kg?
Để giải bài toán trên, học sinh phải
thiết lập được một hệ gồm ba phương trình
bậc nhất có ba ẩn x, y, z lần lượt là khối
lượng của một cái bàn, một cái ghế và một
cái tủ và mỗi phương trình tương ứng với
một lô hàng. Để giải hệ phương trình thiết
lập được, học sinh có thể sử dụng phương
pháp thế hay phương pháp cộng (nếu máy
tính bỏ túi không được phép).
+ Bài toán nghiên cứu (bài toán mở):
là bài toán tập trung phát triển khả năng
hoạt động nghiên cứu của người học, đề
xuất với người học các tình huống mới và
đặt họ vào tình huống nghiên cứu, sáng tạo
ra một phương pháp, một quy trình để giải
bài toán đó. Bài toán mở luôn có thể giải
quyết được bằng nhiều cách khác nhau hay
bằng nhiều trình tự khác nhau. Hoạt động
nghiên cứu được học sinh thiết kế là chính
yếu. Người giáo viên quan tâm đến quy
trình được học sinh chọn lựa, sáng tạo ra
nhiều hơn là quan tâm đến nghiệm của bài
toán tìm được.
Bài toán mở có thể tập trung vào một
hay nhiều lĩnh vực khác nhau của Toán học
như số học, hình học, logic, đo đạc
Hoạt động giải bài toán mở diễn ra qua
nhiều pha. Học sinh sắp xếp thời gian cho
hoạt động nghiên cứu cá nhân rồi sau đó
cho hoạt động nghiên cứu của nhóm.
Những trao đổi bên trong nhóm cho phép
học sinh tiến lên trong hoạt động tìm kiến
một trình tự cho phép giải được bài toán.
Với một bài toán mở, học sinh có thể
gọi là đi vào con đường thực nghiệm (thử,
dự đoán), cho phép một sự vận hành qua
lại giữa lý thuyết và thực hành. Con đường
thực nghiệm này có thể góp phần trả lại
nghĩa của các nội dung toán học.
Nhóm nghiên cứu của Viện nghiên cứu
giảng dạy Toán ở Lyon, Pháp đưa ra định
nghĩa sau:
“Bài toán mở là bài toán có các đặc
tính sau:
- Đề bài ngắn.
- Đề bài không quy kết phương pháp
giải cũng như lời giải (không có các câu
hỏi trung gian cũng như câu hỏi dạng
“chứng minh rằng”). Không có trường hợp
nào lời giải quy về việc sử dụng hay áp
dụng ngay các kết quả vừa được dạy.
- Bài toán nằm trong trường quan
niệm mà học sinh khá quen thuộc. Vì thế, học
sinh có thể dễ dàng “làm chủ” tình huống và
tham gia vào các phép thử, dự đoán, dự án
giải quyết, phản ví dụ.” [1, tr. 20]
Ví dụ 4: Bài toán xây tháp
Sử dụng các lá bài xây tháp như ba
hình dưới đây. Hỏi cần bao nhiêu lá bài để
xây tháp 5 tầng, 12 tầng, 100 tầng và n
tầng?
100
Bài toán trong Ví dụ 4 nhằm mục đích
đưa học sinh vào hoạt động nghiên cứu,
tìm tòi công thức tổng quát cho phép tính
số lượng lá bài cần sử dụng theo số tầng n
của tháp. Hoạt động này trãi qua các pha:
pha tìm tòi nghiên cứu cá nhân và của
nhóm nhóm, pha đánh giá hoạt động của
từng nhóm, pha thể chế hóa quy trình và
kết quả tìm được của từng nhóm. Bài toán
này được thiết kế cho học sinh lớp 11 sau
khi các em học khái niệm dãy số.
Sau nhiều phép thử, dự đoán, làm việc
cá nhân rồi theo nhóm, học sinh có thể tìm
thấy hệ thức liên hệ giữa số bài cần sử
dụng cho n và n+1 tầng như sau:
1 3 2n nu u n ,
trong đó nu chỉ số lá bài cần sử dụng
để xây n tầng. Từ đó, học sinh đi đến công
thức tính số lá bài cần sử dụng như sau:
2
3
2
n
n n
u
,
trong đó nu chỉ số lượng lá bài cần sử
dụng và n chỉ số tần