VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 1-5 
1 
PHÂN TÍCH NỘI DUNG CÁC HOẠT ĐỘNG 
PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG 
Nguyễn Thị Thúy Dung 
Trường Đại học Sài Gòn 
Email: 
[email protected] 
Article History ABSTRACT 
Received: 20/02/2020 
Accepted: 20/3/2020 
Published: 05/4/2020 
School violence prevention and intervention is one of important and essential 
duties at schools. In order to perform this duty effectively, the schools should 
focus more on three basic strategies: propaganding and educating against 
school violence; building a safe, healthy and friendly education environment; 
and handling when there is a risk of violence or school violence has occurred. 
Among them, the strategies on propaganding, educating and building 
educational environment could ensure to prevent and intervent the school 
violence in long-term and sustainably. School violence prevention and 
intervention is necessary to have the comprehensive participation of all school 
pedagogical staff, in close cooperation with organizations in the school, with 
families, local authorities and agencies and organizations outside the school. 
Keywords 
School violence, school 
violence prevention and 
intervention, school. 
1. Mở đầu 
Môi trường học đường là toàn bộ các điều kiện vật chất và tinh thần ở trường học, là nơi học sinh (HS) được giáo 
dục (GD) và học tập để phát triển toàn diện nhân cách. Để đảm bảo cho HS có điều kiện phát triển tốt nhất về thể chất 
và tinh thần, mỗi trường học phải xây dựng môi trường học đường an toàn, lành mạnh, thân thiện, không có bạo lực. 
Bạo lực học đường (BLHĐ) có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng về thể chất và những tổn thương tinh 
thần đối với HS, không chỉ tác hại trước mắt mà có thể ảnh hưởng lâu dài, khó khắc phục trong suốt cuộc đời. BLHĐ 
gây nên không khí lo lắng, căng thẳng, bất an, ảnh hưởng sức khỏe và hạnh phúc gia đình HS. BLHĐ làm cho không 
khí trường học trở nên nặng nề, ảnh hưởng xấu đến môi trường học tập chung, khiến HS sợ hãi khi đến trường, nhà 
trường mất uy tín trước xã hội. BLHĐ cũng gây mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến chuẩn mực đạo đức và thuần 
phong mĩ tục, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa xã hội của địa phương và của quốc gia. 
Chính vì những tác hại như vậy của BLHĐ nên việc phòng, chống BLHĐ phải được sự chung sức thực hiện của 
toàn ngành GD, gia đình và xã hội; trong đó, trách nhiệm quan trọng nhất thuộc về nhà trường - môi trường học 
đường - nơi HS được GD, học tập và sinh hoạt trong thời gian dài trước tuổi trưởng thành. Việc phòng, chống BLHĐ 
phải được thực hiện một cách quyết liệt và chủ động, thực hiện đồng bộ, với quyết tâm cao của tất cả các bộ phận và 
cá nhân trong nhà trường. 
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phòng, chống BLHĐ, Nhà nước và ngành GD đã ban hành nhiều văn bản 
pháp lí liên quan đến vấn đề này. Ngày 20/02/2017, Bộ GD-ĐT ban hành Chỉ thị số 505/CT-BGDĐT về việc tăng 
cường các giải pháp đảm bảo an toàn trong các cơ sở GD. Chỉ thị nêu rõ: “Thời gian vừa qua đã liên tiếp xảy ra các 
vụ tai nạn thương tích; các vụ bạo hành, xâm phạm thân thể, sức khỏe, tinh thần trẻ em, HS trong các cơ sở GD mầm 
non, cơ sở GD phổ thông (PT), có trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng Các vụ việc trên đã ảnh hưởng không tốt 
đến an toàn tính mạng của HS; uy tín, danh dự của đội ngũ nhà giáo; an ninh, trật tự trường học và gây bức xúc trong 
xã hội” (Bộ GD-ĐT, 2017a). Xuất phát từ thực trạng này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2017/NĐ-CP 
ngày 17/7/2017 Quy định về môi trường GD an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống BLHĐ (sau đây gọi tắt là 
Quy định của Chính phủ về môi trường GD) (Chính phủ, 2017). Từ nghị định này của Chính phủ, Bộ GD-ĐT ban 
hành Quyết định số 5886/QĐ-BGDĐT ngày 28/12/2017 về Chương trình hành động phòng, chống BLHĐ trong các 
cơ sở GD mầm non, GD PT và GD thường xuyên giai đoạn 2017-2021 (sau đây gọi tắt là Chương trình hành động 
phòng, chống BLHĐ) (Bộ GD-ĐT, 2017b). 
Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Nhà nước và của ngành GD, các trường PT cần triển khai hoạt động phòng, 
chống BLHĐ. Bài viết này phân tích các hoạt động cụ thể mà trường PT cần thực hiện để phòng, chống BLHĐ; các 
điều kiện để thực hiện tốt hoạt động này. Những vấn đề trình bày trong bài viết góp phần xây dựng cơ sở lí luận, định 
hướng cho việc thực hiện trong thực tiễn tại các trường PT hiện nay. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 1-5 
2 
2. Kết quả nghiên cứu 
2.1. Khái niệm hoạt động phòng, chống bạo lực học đường 
* BLHĐ 
Hành vi bạo lực, theo Tổ chức Y tế thế giới (1996), là “cố ý dùng sức mạnh thể chất hoặc uy quyền để đe dọa 
hoặc thực hiện hành vi chống lại bản thân, người khác hoặc một nhóm người hay một cộng đồng, làm gây ra hay 
làm gia tăng khả năng gây ra tổn thương, tử vong, tổn hại về tâm lí, ảnh hưởng đến sự phát triển hay gây ra sự mất 
mát” (WHO, 1996). 
Hành vi BLHĐ, theo Trần Thị Tú Anh (2012), “là một phần của hành vi bạo lực, xảy ra bên trong hoặc bên ngoài 
phạm vi không gian của nhà trường nhưng có liên quan đến các thành viên của nhà trường. Hành vi BLHĐ có thể 
diễn ra giữa HS với nhau hoặc giữa HS và giáo viên (GV)” (Trần Thị Tú Anh, 2012, tr 356). 
Quy định của Chính phủ về môi trường GD cũng giải thích tại Điều 2, khoản 5: “BLHĐ là hành vi hành hạ, 
ngược đãi, đánh đập; xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; cô lập, xua đuổi và các 
hành vi cố ý khác gây tổn hại về thể chất, tinh thần của người học xảy ra trong cơ sở GD hoặc lớp độc lập” (Chính 
phủ, 2017). 
Từ các quan niệm trên, có thể hiểu, BLHĐ là những hành vi hành hạ, đánh đập, xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng 
mạ và xúc phạm danh dự của HS trong môi trường học đường; gây tổn hại về thể chất và tinh thần cho HS. 
* Phòng, chống BLHĐ 
Mục tiêu tổng quát của Chương trình hành động phòng, chống BLHĐ của Bộ GD-ĐT ghi rõ: “Chủ động phòng 
ngừa, phát hiện, ngăn chặn và kịp thời xử lí các hành vi vi phạm nhằm giảm thiểu BLHĐ” (Bộ GD-ĐT, 2017b). 
Điều 6 của Quy định của Chính phủ về môi trường GD cũng xác định: Phòng, chống BLHĐ bao gồm “biện pháp 
phòng ngừa BLHĐ”, “biện pháp hỗ trợ người học có nguy cơ bị BLHĐ” và “biện pháp can thiệp khi xảy ra BLHĐ” 
(Chính phủ, 2017). 
Như vậy, có thể hiểu: Phòng, chống BLHĐ là phòng ngừa; phát hiện, ngăn chặn nguy cơ BLHĐ để không xảy 
ra và can thiệp, xử lí kịp thời khi xảy ra BLHĐ. 
* Hoạt động phòng, chống BLHĐ ở trường PT 
Từ các khái niệm nêu trên, có thể định nghĩa: Hoạt động phòng, chống BLHĐ ở trường PT là các hoạt động mà 
trường PT thực hiện nhằm phòng ngừa; phát hiện, ngăn chặn nguy cơ xảy ra và can thiệp, xử lí kịp thời khi xảy ra 
các hành vi hành hạ, đánh đập, xâm hại thân thể, sức khỏe; lăng mạ và xúc phạm danh dự của HS trong môi 
trường học đường, gây tổn hại về thể chất và tinh thần cho HS. 
2.2. Các hoạt động phòng, chống bạo lực học đường ở trường phổ thông 
Dựa trên các văn bản pháp lí của Chính phủ và Bộ GD-ĐT thời gian vừa qua, có thể khái quát công tác phòng, 
chống BLHĐ mà trường PT cần thực hiện bao gồm 3 hoạt động cơ bản sau đây: 
2.2.1. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục 
Để thực hiện phòng, chống BLHĐ, trường PT cần thực hiện hoạt động tuyên truyền, bồi dưỡng, GD đối với các 
đối tượng đa dạng: cán bộ quản lí (CBQL), GV, nhân viên (NV), HS, cha mẹ học sinh (CMHS), chính quyền địa 
phương và các cơ quan, tổ chức bên ngoài nhà trường. 
a) Đối với CBQL, GV, NV 
CBQL bao gồm thành viên Ban Giám hiệu nhà trường, CBQL các bộ phận trong trường (phụ trách các tổ chuyên 
môn, tổ văn phòng), cán bộ phụ trách đoàn thể (Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên),...; GV bao gồm GV 
chủ nhiệm và GV bộ môn. NV bao gồm những người làm công tác văn phòng, bảo vệ, y tế, NV vệ sinh,... Tất cả 
hợp thành tập thể nhà trường. 
Việc tuyên truyền, bồi dưỡng cho tập thể nhà trường để thực hiện tốt phòng, chống BLHĐ bao gồm các nội dung 
sau đây: 
Thứ nhất, bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho CBQL, GV, NV. Đạo đức nghề nghiệp được quy định cụ thể trong 
Chuẩn hiệu trưởng, Chuẩn nghề nghiệp GV cơ sở GD PT, trong các văn bản liên quan đến mã số và tiêu chuẩn chức 
danh NV làm việc trong cơ sở GD PT. Tập thể nhà trường với đạo đức nghề nghiệp vững vàng sẽ có bản lĩnh, sức 
mạnh tinh thần vượt qua các tình huống khó khăn, ứng xử văn hóa và chuẩn mực với đồng nghiệp, HS và cha mẹ 
học sinh (CMHS). 
Thứ hai, tuyên truyền cho CBQL, GV, NV về tác hại, hậu quả của BLHĐ và trách nhiệm của bản thân trong việc 
không gây ra BLHĐ, sử dụng các phương pháp GD tích cực, không bạo lực với HS; trách nhiệm phát hiện, thông 
báo, tố giác, ngăn ngừa BLHĐ. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 1-5 
3 
Thứ ba, trang bị cho CBQL, GV, NV kiến thức, kĩ năng về phòng, chống BLHĐ: các nguyên nhân có thể dẫn 
đến BLHĐ; các biểu hiện; các cách thức phát hiện; cách ứng phó, xử lí và can thiệp của người lớn... 
Thứ tư, tổ chức tập huấn chuyên sâu (quy trình ứng phó, kịch bản ứng phó) cho đội ngũ cán bộ, GV, NV được 
phân công thực hiện công tác phòng, chống BLHĐ. Đây có thể là một tổ/ đội/ nhóm bao gồm đại diện GV chủ nhiệm, 
GV bộ môn, chuyên viên tư vấn tâm lí, NV y tế, bảo vệ, giám thị,... hoạt động với tính chất “lực lượng phản ứng 
nhanh”, cần được trang bị những kiến thức và kĩ năng chuyên nghiệp hơn trong những nguy cơ, tình huống cấp bách 
xảy ra BLHĐ. 
Thứ năm, xây dựng và công khai đến CBQL, GV, NV các kênh tiếp nhận thông tin về BLHĐ (đường dây nóng, 
email,...). 
Các nội dung trên có thể tuyên truyền đến CBQL, GV, NV qua các hình thức như: tuyên truyền trực tiếp qua các 
cuộc họp, hội thảo, hội nghị, các lớp tập huấn, các buổi nói chuyện chuyên đề; gián tiếp qua văn bản, tài liệu, website 
nhà trường,... 
b) Đối với HS 
HS là đối tượng hoặc chủ thể của BLHĐ, vì thế, nhà trường cần đặc biệt chú trọng thực hiện tuyên truyền và GD 
HS về phòng, chống BLHĐ. Nội dung tuyên truyền, GD HS bao gồm: 
- Tuyên truyền cho HS về tác hại, hậu quả của BLHĐ và trách nhiệm trong việc phát hiện, thông báo, tố giác, 
ngăn ngừa hành vi BLHĐ; 
- Trang bị cho HS kiến thức, kĩ năng về phòng, chống BLHĐ; kiến thức và kĩ năng tự bảo vệ; 
- Công khai đến HS các kênh tiếp nhận thông tin về BLHĐ (hộp thư góp ý, đường dây nóng, email,...). 
Hình thức tuyên truyền, GD HS rất phong phú, như: sinh hoạt dưới cờ đầu tuần; các buổi sinh hoạt chủ nhiệm; 
các buổi nói chuyện chuyên đề do trường tổ chức cho HS; các hoạt động câu lạc bộ, tọa đàm, hội thi; tích hợp trong 
các môn học chính khóa và hoạt động GD; qua góc tuyên truyền ở cổng trường, sân trường, lớp học; qua website 
của trường; qua các tài liệu, tờ rơi mà trường phát cho HS;... 
c) Đối với CMHS 
CMHS là lực lượng quan trọng tham gia và hỗ trợ nhà trường phòng, chống BLHĐ. Vì thế, việc tuyên truyền 
cho CMHS cần được nhà trường quan tâm thực hiện, với nội dung chính là: 
- Tuyên truyền cho CMHS về tác hại, hậu quả của BLHĐ và trách nhiệm phát hiện, thông báo, tố giác, ngăn ngừa 
hành vi BLHĐ; 
- Xây dựng và công khai đến CMHS các kênh tiếp nhận thông tin về BLHĐ. 
Việc tuyên truyền đến CMHS có thể được thực hiện qua nhiều hình thức đa dạng: tuyên truyền trong các buổi 
họp CMHS; trong các buổi nói chuyện chuyên đề do trường tổ chức cho CMHS; qua website của trường; qua góc 
tuyên truyền (ở sân trường, cổng trường); qua các tài liệu, tờ rơi mà trường phát cho CMHS... 
d) Đối với chính quyền địa phương và các cơ quan, tổ chức bên ngoài nhà trường 
Nhà trường cũng cần thực hiện công tác tuyên truyền đến người dân địa phương và các tổ chức xã hội như Hội 
Phụ nữ, Hội khuyến học,... về tác hại, hậu quả của BLHĐ và trách nhiệm phát hiện, thông báo, tố giác, ngăn ngừa 
BLHĐ; xây dựng và công khai các kênh tiếp nhận thông tin về BLHĐ. Ngoài ra, nhà trường cần hợp tác với chính 
quyền địa phương và các cơ quan liên quan như công an, truyền thông..., bàn bạc trước các biện pháp phối hợp khi 
cần can thiệp, xử lí BLHĐ. 
Hình thức tuyên truyền, làm việc của nhà trường với địa phương và các cơ quan, tổ chức có thể qua các cuộc 
họp, qua văn bản chính thức,... 
2.2.2. Hoạt động xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh, thân thiện trong nhà trường 
Trong module 5 “Nâng cao năng lực hiểu biết và xây dựng môi trường GD của GV” - Tài liệu bồi dưỡng thường 
xuyên cho GV trung học cơ sở, trung học PT (2011-2018), tác giả Trần Quốc Thành (2018) cho rằng: môi trường học 
tập của HS ở trường bao gồm môi trường vật chất và môi trường tinh thần (mối quan hệ giữa GV với HS, giữa HS với 
HS, giữa nhà trường với gia đình và xã hội; phong cách, phương pháp giảng dạy của GV...). Quy định của Chính phủ 
về môi trường GD tại Điều 2 cũng giải thích: “Môi trường GD là tất cả các điều kiện về vật chất và tinh thần có ảnh 
hưởng đến hoạt động GD, học tập, rèn luyện và phát triển của người học. Môi trường GD an toàn là môi trường GD 
mà người học được bảo vệ, không bị tổn hại về thể chất và tinh thần. Môi trường GD lành mạnh là môi trường GD 
không có tệ nạn xã hội, không bạo lực; người học, CBQL, GV, NV có lối sống lành mạnh, ứng xử văn hóa. Môi trường 
GD thân thiện là môi trường GD mà người học được tôn trọng, đối xử công bằng, bình đẳng và nhân ái; được phát huy 
dân chủ và tạo điều kiện để phát triển phẩm chất và năng lực” (Chính phủ, 2017). 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 1-5 
4 
Như vậy, việc xây dựng môi trường GD an toàn, lành mạnh, thân thiện là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường 
để BLHĐ không có cơ hội xảy ra; hoạt động này nhằm phòng ngừa, giảm thiểu BLHĐ một cách lâu dài và bền vững. 
Để xây dựng môi trường GD như vậy, nhà trường cần thực hiện tốt 3 việc cơ bản là: xây dựng và triển khai Bộ 
quy tắc ứng xử; tổ chức triển khai công tác tư vấn tâm lí trong trường; phối hợp với gia đình và các tổ chức đoàn thể 
trong xây dựng môi trường GD. 
a) Xây dựng và triển khai Bộ quy tắc ứng xử trong nhà trường 
Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018-2025” (ban hành theo Quyết định 1299/QĐ-
TTg ngày 03/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ) quy định rõ: giai đoạn từ 2018 đến 2020, “100% trường học xây 
dựng và thực hiện Bộ quy tắc ứng xử (quy tắc ứng xử) trong trường học theo quy định quy tắc ứng xử do Bộ GD-
ĐT ban hành, phù hợp với điều kiện và đặc trưng vùng miền của mỗi nhà trường” (Thủ tướng Chính phủ, 2018). Để 
cụ thể hóa quy định này, trường PT cần tiến hành: 
- Xây dựng Bộ quy tắc ứng xử: Nhà trường xây dựng dự thảo Bộ quy tắc ứng xử (căn cứ quy định của Bộ GD-
ĐT), quy định cụ thể những điều nên làm và không nên làm trong các mối quan hệ ứng xử của các chủ thể trong nhà 
trường thông qua trang phục, ngôn ngữ, hành vi ứng xử; ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện, phù hợp với cấp học và đặc 
trưng văn hóa vùng miền. Dự thảo cần được đưa về các bộ phận trong trường để đóng góp ý kiến, từ đó mới ban 
hành chính thức. 
- Triển khai thực hiện và kiểm tra, đánh giá: Bộ quy tắc ứng xử cần được quán triệt sâu sắc đến tất cả CBQL, GV 
và NV của nhà trường; toàn thể HS; tuyên truyền sâu rộng đến toàn thể CMHS (chỉ đạo GV lồng ghép trong các tiết 
học chính khóa; phối hợp với Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Đội thiếu niên... trong các hoạt động ngoại khóa; phối 
hợp tuyên truyền trong các hoạt động của Hội CMHS). Bộ quy tắc ứng xử cần được niêm yết công khai trong toàn 
trường (phòng học, phòng làm việc, bảng tin, bảng thông báo, website nhà trường,...); gửi đến từng bộ phận và cá 
nhân qua email, hệ thống liên lạc điện tử. 
Bộ quy tắc ứng xử vừa là công cụ để hướng dẫn, GD; vừa là phương tiện để nhà trường theo dõi, kiểm tra việc 
thực hiện; từ đó, xây dựng văn hóa học đường tốt đẹp, xây dựng môi trường GD an toàn, lành mạnh, thân thiện - nơi 
mà mầm BLHĐ không có cơ hội để sinh sôi. 
b) Tổ chức triển khai công tác tư vấn tâm lí trong nhà trường 
Mục đích của công tác tư vấn tâm lí trong trường PT được nêu rõ tại Điều 3 của Thông tư số 31/2017/TT-BGDĐT 
ngày 18/12/2017 của Bộ GD-ĐT hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn tâm lí cho HS trong trường PT: “Phòng ngừa, 
hỗ trợ và can thiệp (khi cần thiết) đối với HS đang gặp phải khó khăn về tâm lí trong học tập và cuộc sống để tìm 
hướng giải quyết phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực có thể xảy ra; góp phần xây dựng môi trường GD an toàn, 
lành mạnh, thân thiện và phòng, chống BLHĐ” (Bộ GD-ĐT, 2017c). 
Như vậy, công tác tư vấn tâm lí cho HS trong nhà trường chính là nhằm phòng ngừa BLHĐ, không để nó 
xảy ra; hoặc can thiệp và giảm thiểu tác động tiêu cực khi nó xảy ra. Nội dung tư vấn tâm lí cho HS bao gồm: 
tư vấn về tâm, sinh lí giới tính; về kĩ năng, phương pháp học tập hiệu quả; về kĩ năng phòng, chống bạo lực, 
xâm hại; về ứng phó, giải quyết vấn đề phát sinh trong mối quan hệ thầy trò, bạn bè, gia đình; tư vấn giới thiệu 
HS đến các cơ sở điều trị tâm lí (khi cần thiết can thiệp chuyên sâu); Tư vấn tâm lí cho HS có thể được tiến 
hành bằng ba hình thức cơ bản: (1) Tư vấn trực tiếp với cá nhân hoặc nhóm HS tại phòng hoặc góc tư vấn tâm 
lí của trường; (2) Tư vấn gián tiếp với HS qua điện thoại, email, mạng xã hội; (3) Tư vấn đại trà (lồng ghép 
chuyên đề tư vấn tâm lí vào các tiết học chính khóa, tiết sinh hoạt chủ nhiệm, sinh hoạt dưới cờ; tổ chức câu 
lạc bộ, diễn đàn về các chủ đề liên quan đến nội dung cần tư vấn; tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề tư vấn 
tâm lí cho HS toàn khối/ trường; viết bài trên website nhà trường;...). Hoạt động tư vấn tâm lí được thực hiện 
bởi GV được phân công kiêm nhiệm hoặc chuyên viên chuyên trách do nhà trường tuyển dụng; phối hợp với 
GV chủ nhiệm và GV bộ môn; với Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên, Hội CMHS, các cơ quan, tổ chức chuyên 
môn bên ngoài nhà trường. 
c) Phối hợp với gia đình và các tổ chức đoàn thể trong xây dựng môi trường GD an toàn, lành mạnh, thân thiện 
Để việc phối hợp được khả thi và thuận lợi, nhà trường không chỉ thực hiện tốt công tác tuyên truyền, mà cần 
thực hiện các công việc cụ thể: 
- Tổ chức tốt việc kí cam kết phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong xây dựng môi trường GD an toàn, lành 
mạnh, thân thiện, không để xảy ra BLHĐ; 
- Tổ chức tốt việc kí cam kết phối hợp với các tổ chức (Đoàn, Đội,) trong xây dựng môi trường GD an toàn, 
lành mạnh, thân thiện, không để xảy ra BLHĐ. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 475 (Kì 1 - 4/2020), tr 1-5 
5 
2.2.3. Hoạt động xử lí bạo lực học đường 
Phòng ngừa tốt có thể giảm thiểu BLHĐ; tuy nhiên, nhà trường cũng cần chuẩn bị và kịp thời ứng phó khi BLHĐ xảy ra. 
a) Trường hợp có nguy cơ xảy ra BLHĐ 
Nếu thực hiện tốt công tác tuyên truyền và xây dựng được các kênh thông tin hiệu quả, phối hợp tốt giữa người 
phụ trách công tác tư vấn tâm lí với đội ngũ GV chủ nhiệm, GV bộ môn, cán bộ Đoàn, Đội, CMHS,... thì nhà trường 
có thể kịp thời phát hiện HS có hành vi gây gổ, có nguy cơ gây BLHĐ và HS có nguy cơ bị BLHĐ; đánh giá mức 
độ nguy cơ, hình thức bạo lực có thể xảy ra; từ đó có biện pháp hỗ trợ, can thiệp kịp thời, thực hiện tốt công tác tư 
vấn tâm lí đối với HS nguy cơ gây BLHĐ và HS có nguy cơ bị BLHĐ. 
b) Trường hợp xảy ra BLHĐ 
Nếu BLHĐ vẫn xảy ra ngoài khả năng phòng ngừa, thì nhà trường cần có biện pháp xử lí kịp thời và chuyên 
nghiệp, nói cách khác, nhà trường cần chuẩn bị trước kịch bản ứng phó đối với trường hợp xảy ra BLHĐ và tổ chức 
tập huấn kịch bản này cho lực lượng phụ trách hoạt động phòng, chống BLHĐ của trường. Cần nhanh chóng đánh 
giá sơ bộ về mức độ tổn hại của người học; thực hiện ngay các biện pháp trợ giúp, chăm sóc y tế, tư vấn đối với HS 
bị bạo lực; theo dõi, đánh giá sự an toàn của HS; phối hợp tốt với gia đình trong chăm sóc và hỗ trợ HS; trường hợp 
vụ việc vượt quá khả năng giải quyết của nhà trường thì phải thông báo kịp thời với cơ quan công an, chính quyền 
địa phương và các cơ quan liên quan để phối hợp xử lí theo quy định của pháp luật. 
Hai hoạt động đầu để phòng ngừa nhằm giảm thiểu BLHĐ và hoạt động thứ 3 để phát hiện, ngăn chặn, can thiệp, 
xử lí kịp thời khi xảy ra BLHĐ. 
3. Kết luận 
Phòng, chống BLHĐ là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của trường PT