Phát huy những giá trị tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng trong việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay

Tóm tắt Lệ làng vốn được xem là công cụ quản lý xã hội trong các làng xã truyền thống của Việt Nam. Lệ làng được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Nó có giá trị tích cực trong việc điều chỉnh mối quan hệ xã hội trên quy mô nhỏ hẹp của làng xã. Bên cạnh đó nó cũng tồn tại những mặt còn hạn chế mang ý thức hệ phong kiến. Chính vì vậy, lệ làng có nhiều yếu tố ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới việc xây dựng nông thôn mới giai đoạn hiện nay. Do vậy, để xây dựng thành công nông thôn mới ở nước ta hiện nay một mặt phải đẩy việc xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn, mặt khác cần phải có những giải pháp thiết thực, hiệu quả phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng truyền thống để xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy những giá trị tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng trong việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 120 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 Phát huy những giá trị tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng trong việc xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay Promoting the positive values of the village’s rules in the construction process of new rural areas in our country today Trần Hoàng Yến Email: yendhsd@gmail.com Trường Đại học Sao Đỏ Ngày nhận bài: 29/10/2019 Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 24/6/2020 Ngày chấp nhận đĕng: 30/6/2020 Tóm tắt Lệ làng vốn được xem là công cụ quản lý xã hội trong các làng xã truyền thống của Việt Nam. Lệ làng được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam. Nó có giá trị tích cực trong việc điều chỉnh mối quan hệ xã hội trên quy mô nhỏ hẹp của làng xã. Bên cạnh đó nó cũng tồn tại những mặt còn hạn chế mang ý thức hệ phong kiến. Chính vì vậy, lệ làng có nhiều yếu tố ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới việc xây dựng nông thôn mới giai đoạn hiện nay. Do vậy, để xây dựng thành công nông thôn mới ở nước ta hiện nay một mặt phải đẩy việc xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn, mặt khác cần phải có những giải pháp thiết thực, hiệu quả phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của lệ làng truyền thống để xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Từ khóa: Lệ làng; nông dân; nông thôn; ý thức pháp luật. Abstract Village’s rules are considered as a social management tool in traditional villages of Vietnam. It has a positive value in adjusting social relations on the small scale of villages, therefore, the village’s rules have many factors that have positively influence on the construction of new rural areas in this period. Therefore, in order to successfully build a new rural area in our country, on the one hand, it is necessary to push the construction and complete the rural infrastructure, on the other hand, it is necessary to promote the positive aspects and limit the negative aspects of the traditional laws in some villages to build a new rural area in our country today. Keywords: Village’s rules; farmers; rural; law consciousness. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ra đời cùng với quá trình hình thành và phát triển làng xã, lệ làng là một trong những cơ sở để duy trì và điều chỉnh các mối quan hệ của người nông dân trong phạm vi làng xã. Lệ làng đã góp phần quan trọng trong ổn định trật tự, củng cố làng xã thành địa bàn vững chắc để bảo tồn những giá trị vĕn hóa. Đã có nhiều công trình nghiên cứu khác nhau liên quan đến lệ làng như: Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính [1], tác giả đã khái quát về những phong tục làng xã Việt Nam từ thời phong kiến đến nay trên cả phương diện tích cực và tiêu cực, các công trình: Mấy suy nghĩ về Hương ước trong quản lý nông thôn [3], Mấy nét về quá trình hình thành và phát triển Hương ước Việt Nam [3] của Phan Đại Doãn, công trình Hương ước quản lý làng xã [6], Lệ làng phép nước [7] của Bùi Xuân Đính - các tác giả cũng đã đi phân tích những mặt tích cực và tiêu cực về hương ước làng xã Việt Nam Mặc dù vậy, do yếu tố lịch sử và thời đại nên các công trình chưa đề cập tới giá trị của lệ làng trong việc xây dựng nông thôn mới. Trong bài viết này, tác giả đi phân tích, đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của lệ làng, từ đó đề ra một số giải pháp để phát huy những giá trị tích cực và khắc phục những hạn chế của lệ làng để xây dựng thành công nông thôn mới ở nước ta thời kỳ hội nhập.Người phản biện: 1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà 2. TS. Nguyễn Thị Kim Nguyên LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC 121Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 2. LỆ LÀNG VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỆ LÀNG - LUẬT NƯỚC TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN VIỆT NAM 2.1. Những điểm giống nhau giữa lệ làng và luật nước - Thứ nhất, giống nhau ở mục đích tồn tại. Cả lệ làng và luật pháp nhà nước nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tổ chức trong các mối quan hệ xã hội. - Thứ hai, với đặc tính là công cụ quản lý, lệ làng và luật pháp nhà nước lấy hoạt động xã hội là cơ sở để phản ánh và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Vì vậy cả lệ làng và luật pháp nhà nước đều có nội dung phong phú liên quan đến các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, vĕn hóa - xã hội. Trên lĩnh vực chính trị xã hội, lệ làng và luật pháp nhà nước có những quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, làng xã; các quy định về hôn nhân gia đình và quan hệ về hành vi ứng xử giữa người với người, cá nhân và cộng đồng trong các quan hệ xã hội của con người. Trên lĩnh vực đời sống tinh thần: Vĕn hóa, giáo dục, tín ngưỡng, tôn giáo... lệ làng và luật pháp nhà nước đều có những quy định về cơ cấu tổ chức, nội dung và hình thức thực hiện. Thông qua những quy định đó thấy toát lên những nét vĕn hóa Việt Nam ẩn sâu trong làng xã: hiếu học, trọng học thức, trọng đạo đức lễ nghĩa, sống tình nghĩa thủy chung... - Thứ ba, các quy định của lệ làng và luật pháp nhà nước được đảm bảo hiệu lực thi hành nhờ chế độ thưởng phạt rõ ràng, nghiêm khắc đối với mọi cá nhân và tổ chức. Những hình thức thưởng phạt mà luật và lệ quy định có biện pháp kinh tế (bắt bồi thường thiệt hại, phạt bằng tiền, bằng hiện vật); có biện pháp chính trị (hạ quan chức, tước ngôi thứ); đến cả việc chà đạp lên nhân phẩm sử dụng nhục hình, đánh đập... nhằm buộc mọi cá nhân, tập thể phải tuân thủ nghiêm những quy ước chung của xã hội. Việc sử dụng hình phạt bằng nhục hình thể hiện rõ tính tàn bạo của luật - lệ phong kiến. 2.2. Sự khác nhau giữa lệ làng và luật nước Với tư cách là một đơn vị dân cư, quá trình hình thành và phát triển của làng, xã gắn liền với sự hình thành và phát triển của dân tộc. Trong quá trình đó lệ làng từng bước được hình thành. Chính vì vậy, lệ làng vẫn tồn tại song song với luật nước. Sự tồn tại của cả "Luật" và "Lệ" mặc nhiên đã thể hiện sự khác nhau của nó. - Thứ nhất, tính dân chủ của lệ làng và sự chuyên chế của luật nước. Luật nước dưới thời phong kiến thể hiện quyền lực và ý chí thống trị của nhà vua - người đứng đầu cơ quan nhà nước và giai cấp thống trị. Luật do vua ban hành và bắt buộc mọi người phải tuân theo. Còn lệ làng ra đời dựa trên tập tục, sự bàn bạc và đồng tình, tuy không phải của toàn thể, nhưng ít ra cũng là của phần lớn cư dân trong làng xã. Tùy theo mức độ phong kiến hóa của từng làng xã mà lệ làng thể hiện trong các hương ước phản ánh kết quả của sự bàn bạc, thảo luận, nhân nhượng lẫn nhau để đi đến thống nhất. Điều này thể hiện ít nhiều tính chất "dân chủ làng xã", đối lập với tính chất áp đặt chuyên chế của "phép vua". - Thứ hai, phạm vi áp dụng và nội dung quy định cũng có những khác nhau giữa “Lệ” và “Luật”. Làng xã là đơn vị tụ cư của người nông dân, là đơn vị cơ sở và cấp hành chính cuối cùng của nhà nước. Do đó đời sống kinh tế và sinh hoạt tinh thần của mỗi làng là khác nhau, nên lệ làng cũng khác nhau và không thể phong phú bằng đời sống của một nước. Bởi vậy, phạm vi áp dụng của lệ làng là chỉ dành riêng cho làng đó, mặt khác nội dung vĕn bản của lệ làng thường đơn giản hơn so với luật pháp nhà nước. Một bộ luật của nhà nước thường có hàng trĕm điều khoản. Chẳng hạn như Luật Hồng Đức với 13 chương 722 điều liên quan tới hầu hết các lĩnh vực của đời sống đất nước, còn một bản hương ước, chỉ gồm vài chục điều liên quan tới một số mặt của đời sống một làng. Mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội lại được luật nước cụ thể hóa thành hàng chục, có khi hàng trĕm điều khoản. Ví dụ, chỉ riêng vấn đề hôn nhân gia đình, Luật Hồng Đức đã quy định thành 58 điều từ điều 284 đến điều 341, ở chương Hộ hôn. Vấn đề liên quan đến trộm cướp có 54 điều, ở chương Đạo tặc (từ điều 411 đến điều 464) [9] trong khi đó, những vấn đề tương tự chỉ được ghi thành một vài điều ngắn gọn trong các bản hương ước. Tính chất phong phú và phức tạp của đời sống một nước, cũng đòi hỏi luật nước phải có những quy định đảm bảo cho cuộc sống ấy đi vào quĩ đạo, giữ "thĕng bằng" cho nó. Những điều khoản mà người ta không thể tìm thấy trong bất kỳ một vĕn bản lệ làng nào. Chẳng hạn, những quy định liên quan đến đấu tranh (kiện tụng), trá ngụy (xét xử tội theo giặc, phản quốc), toán ngục (việc xét xử của ngành luật pháp) danh lệ (định chức danh tội phạm), vi chế (làm trái pháp luật)... Cũng có những vấn đề diễn ra trong đời sống hàng ngày nhưng lại không được, hay ít được ghi trong hương ước như vấn đề hương hỏa, điền sản trong khi đó Luật Hồng Đức quy chế hóa thành 13 điều (hương hỏa) và 32 điều về điền sản [9]. NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 122 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 - Thứ ba, sự khác nhau trong chế tài của "Luật" và "Lệ". Những quy định hình phạt của lệ làng thường đơn giản hơn so với luật pháp của nhà nước. Mặt khác, trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội, thường chỉ liên quan tới một vài điều khoản của lệ làng và cùng với nó là những hình phạt cụ thể; trong khi đó, ở luật nước được ghi thành vài chục điều khoản nên mức độ hình phạt rất phong phú. Do vậy, ở cấp độ xử phạt của lệ làng thấp hơn so với luật pháp nhà nước. Hình thức xử phạt của lệ làng nói chung nhẹ hơn so với luật pháp của nhà nước. Trong những hình thức xử phạt của lệ làng chỉ có một hình thức động chạm đến thân thể người vi phạm đó là đánh đập nhưng cũng rất ít làng áp dụng. Lệ làng cũng không có hình thức lưu đầy, không có tử hình cho bất kỳ hành vi vi phạm nào kể cả những hành động được coi là nghiêm trọng nhất đối với làng. Trong khi đó hình thức xử phạt xâm phạm một cách tàn bạo đến thân thể phạm nhân ta thấy được một cách phổ biến trong luật Hồng Đức - một bộ luật được coi là tiến bộ dưới chế độ phong kiến. Đó là các hình thức đánh bằng roi, bằng gậy, thích chữ vào mặt, vào trán, chặt đầu, xẻo thịt, chặt chân tay cho chết dần. Luật nước còn quy định 10 tội buộc phải chết (thập ác). Điều này thể hiện tính chất nghiêm minh và thậm chí có tính tàn bạo của luật pháp phong kiến. Mặt khác, cùng một hành động phạm tội nhưng biện pháp xử lý giữa lệ làng và luật nước cũng khác nhau. Chẳng hạn, trong luật Hồng Đức, tội bất hiếu "là rủa mắng ông bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy chồng, vui chơi ĕn mặc như thường; nghe thấy tang ông bà cha mẹ mà giấu, không cử ai (tổ chức tang lễ) nói dối là ông bà cha mẹ chết" [9] bị luật pháp quy vào tội thập ác, thì lệ làng chỉ lên án bằng dư luận, hoặc áp dụng hình thức xử lý cao nhất là đánh đòn. Ở lệ làng, ta ít thấy ghi những hình phạt cụ thể, thay vào đó là những lời khuyên rĕn chung chung, nặng về rĕn đe thuyết phục tình cảm: không nên, không được, cấm không được... nhưng hiệu lực của nó không chỉ ở mức thưởng phạt mà bằng cả cơ chế tác động linh hoạt đến với các thành viên của làng. Thông qua bộ máy chính quyền làng xã bầu ra, được nhà nước bổ nhiệm và các tổ chức xã hội mà người nông dân tham gia với tư cách thành viên: Hội tư vĕn, tư võ, hội lão, phe, giáp... họ tộc và qua cả các hoạt động lễ hội, để tác động đến mỗi hành vi của người nông dân. Vừa bằng thưởng phạt mang tính cưỡng chế, vừa bằng cả sức ép của dư luận, làng xã thực hiện sự giám sát thường xuyên, trực tiếp, việc thực hiện những quy định của làng nên người nông dân khó có thể vượt ra ngoài sự kiểm soát đó. Người nông dân hình thành thói quen ứng xử theo "lệ" của làng. Hương ước luôn "là một thành tố trong thể chế quản lý làng xã, là một nét quan trọng trong vĕn hóa quản lý con người Việt Nam" [3]. - Thứ tư, tính công bằng của “lệ làng” và sự bất bình đẳng của “phép vua”. Trong lệ làng không có hình thức giảm tội cho bất kỳ hành vi vi phạm và người vi phạm nào, bất kể người đó có thành phần xuất thân, hay địa vị xã hội như thế nào. Trong khi đó ở luật nước, có quy định tám điều được nghị xét giảm tội (Bát nghị) khi phạm tội. Đó là, nghị thân: những người thân thích của vua, thái hậu, hoàng hậu; nghị cố: là những người cũ đã theo giúp vua lâu ngày, hoặc những người giúp việc của triều trước; nghị hiền: những người có đức hạnh lớn; nghị nĕng: những người có tài nĕng lớn; nghị công: những người có công lớn; nghị quý: là những quan lại có chức vụ từ tam phẩm trở lên; nghị cần: là những người cần cù chĕm chỉ; nghị tán: là những con cháu của triều trước [9]. - Thứ nĕm, lệ làng không cho phép bất cứ cá nhân vi phạm nào được nộp tiền để chuộc tội. Trong khi đó, luật nước có một số điều khoản cho phép người phạm một số tội nhất định được dùng tiền để chuộc tội. Chẳng hạn Điều 16 Luật Hồng Đức ghi rõ: Những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống cùng những người bị phế tật, phạm từ tội lưu trở xuống, đều cho chuộc bằng tiền, phạm tội thập ác thì không theo luật này. Từ 80 tuổi trở lên, từ 10 tuổi trở xuống cũng như những người bị ác tật phạm tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết thì cũng phải tâu để vua xét định, ĕn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc [9]. Sự giống và khác nhau giữa lệ làng và luật nước cho thấy: Trong xã hội Việt Nam truyền thống lệ làng quan trọng không kém gì luật nước, điều này thể hiện ở Hương ước của các làng thường mở đầu như một "tuyên ngôn" về sự tồn tại của mình "Nước có pháp luật quy định, còn làng có những điều ước riêng". Sở dĩ lệ làng có vị trí như vậy vì "nó phản ánh một cách sinh động mối quan hệ thống nhất có mâu thuẫn giữa nước và làng" [11]. Chính sự khác biệt giữa lệ làng và luật nước đã phản ánh tính chất dân chủ, tính tự quản của làng xã. Việc tự quản được phản ánh trong hương ước bắt nguồn từ nhu cầu phải ổn định hóa, trật tự hóa các hoạt động trong nội bộ mỗi làng và từ nhu cầu của mỗi người nông dân, với tư cách là thành viên của làng. Mặc dù có thể thấy rõ tính chất bắt buộc và LIÊN NGÀNH TRIẾT HỌC - XÃ HỘI HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC 123Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 đòi hỏi cao của hương ước đối với hành vi cá nhân mỗi người, nhưng mỗi người dân trong làng đều tự nguyện làm đúng những quy định của lệ làng. Với tư cách là các chuẩn mực được cộng đồng đề ra, những quy ước làng thông qua các hoạt động được người nông dân nhận thức biến thành tính tổ chức, tính kỷ cương thói quen tôn trọng lệ làng. Người nông dân thường có ý thức với lệ làng trước khi có ý thức pháp luật. Tính tự nguyện trong việc chấp hành các quy định của lệ làng phản ánh tính "dân chủ làng xã" vốn hình thành và duy trì trong nội bộ mỗi làng. Trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, Đảng ta xác định vĕn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Vì vậy, để xây dựng thành công nông thôn mới, chúng ta cần phải tiếp tục phát huy những giá trị tốt đẹp của vĕn hóa làng, đồng thời loại bỏ những nội dung không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay. 3. NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA LỆ LÀNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 3.1. Vài nét về xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay Ngày 05/8/2008, Hội nghị lần thứ VII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW, về nông nghiệp, nông dân và nông thôn; ngày 16/4/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 491/QĐ-TTg về Ban hành bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; ngày 21/8/2009 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 54/TT-NNPTN quy định: vùng/ khu vực nông thôn mới Việt Nam XHCN là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn; được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã. Từ các vĕn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các bộ, ban ngành, chúng ta có thể thấy rằng xây dựng nông thôn mới: Là xây dựng, phát triển vùng nông thôn, làm cho dân cư nông thôn có đời sống vật chất và tinh thần không ngừng được nâng cao với nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững: kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn công nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc vĕn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; Hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tĕng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sau 10 nĕm xây dựng nông thôn mới, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào “đến tháng 10/2019, cả nước đã có 4.665 xã (52,4%) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, tĕng 35,3% so với cuối nĕm 2015 (là thời điểm tổng kết giai đoạn 1) và hoàn thành vượt 2,4% so với mục tiêu 10 nĕm (2010- 2020) của Đảng, Quốc hội và Chính phủ giao” [13]. Làm thay đổi nhận thức sâu sắc của toàn thể cán bộ, đảng viên và người dân về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn; có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và thực sự là tiềm nĕng, thế mạnh của đất nước. Phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn” đã trở thành một phong trào có sức lan tỏa mạnh mẽ, sâu rộng trên phạm vi cả nước. Huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị các cấp và toàn xã hội, đặc biệt là sự đồng lòng, hưởng ứng của người dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã triển khai hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội, phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới. Trong 10 nĕm triển khai, Chương trình nông thôn mới là chương trình duy nhất đã hình thành được hệ thống bộ máy chỉ đạo, điều hành, quản lý, triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương và hoạt động ngày càng chuyên nghiệp. Mặc dù vậy, kết quả xây dựng nông thôn mới của một số vùng còn thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước, vẫn còn khoảng cách chênh lệch về kết quả thực hiện giữa các vùng, miền. Môi trường nông thôn tuy được quan tâm nhưng chưa thực sự chuyển biến rõ nét, vẫn là vấn đề bức xúc ở nhiều địa phương, nhất là xử lý chất thải rắn, nước thải sinh hoạt, chất thải của các khu công nghiệp, làng nghề. Nhiều giá trị vĕn hóa truyền thống ở một số địa phương đang dần bị mai một, các tệ nạn xã hội ở nông thôn vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp. 3.2. Những tác động tích cực của lệ làng đối với quá trình xây dựng nông thôn mới Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Đứng trên quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử, bàn về các giá trị truyền thống, Giáo sư Trần Vĕn Giàu nhấn mạnh: “Không có giá trị nào không do con người các thế hệ nối tiếp nhau tạo thành. Giá trị tinh thần cũng không phải là những cái gì nhất thành bất biến, nhưng mỗi lúc mỗi thay đổi thì tính truyền thống không có nữa; nói truyền thống là nói lâu dài qua nhiều thời mà lõi cốt vẫn giữ, nói của dân tộc là nói của chung NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 124 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 2 (69) 2020 đại đa số nhân dân. Trong giá trị truyền thống dân tộc thì người xưa và người nay đều cơ bản đồng tình, người sau nối chí người trước, phát huy lên, làm giàu mãi” [8]. Là sự phản ánh "vĕn hóa làng", tinh thần dân chủ cơ sở, giá trị của lệ làng xưa thể hiện ở những phong tục tập quán tốt đẹp còn tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội của người nông dân trong quá trình xây dựng nông thôn mới hiện nay. - Thứ nhất, lệ làng đề cao tinh thần trách nhiệm của con người trước cộng đồng: gia đình - họ hàng - làng - nước. Lệ làng hình thành trực tiếp từ các hoạt động trong đời sống làng xã, là những quy định mang tính đạo đức pháp luật. Lệ làng quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của cá nh