Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi

Kinh tế tập thể, hợp tác xã đóng vai trò nòng cốt, góp phần quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi; trong đó đặc biệt là tạo việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời làm thay đổi nhận thức và tập quán sản xuất của đồng bào; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề cho thành viên và người lao động; gắn phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, khai thác tiềm năng, lợi thế sẵn có của thành phần kinh tế này đã và luôn là nhu cầu cần thiết của kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 1Volume 9, Issue 4 PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ VÀ MIỀN NÚI Nguyễn Ngọc Bảo Liên minh Hợp tác xã Việt Nam Email: nguyenbaovca@gmail.com Ngày nhận bài: 11/11/2020 Ngày phản biện: 14/11/2020 Ngày tác giả sửa: 15/11/2020 Ngày duyệt đăng: 17/11/2020 Ngày phát hành: 20/11/2020 DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/495 Kinh tế tập thể, hợp tác xã đóng vai trò nòng cốt, góp phần quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi; trong đó đặc biệt là tạo việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời làm thay đổi nhận thức và tập quán sản xuất của đồng bào; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề cho thành viên và người lao động; gắn phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững với giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, khai thác tiềm năng, lợi thế sẵn có của thành phần kinh tế này đã và luôn là nhu cầu cần thiết của kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Hợp tác xã; Kinh tế tập thể; Xây dựng nông thôn mới; Vùng dân tộc thiểu số và miền núi. 1. Đặt vấn đề Thời gian qua, việc phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, xây dựng mô hình hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn đã góp phần quan trọng giúp nhiều địa phương vùng dân tộc thiểu số (DTTS) thực hiện được nhiều tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới. Trong đó có tiêu chí nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho người dân Nghiên cứu này phân tích vai trò cũng như những thành tựu đạt được của hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi thời gian vừa qua, đồng thời đề xuất những giải pháp để phát triển hiệu quả thành phần kinh kế này, góp phần đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS & MN) giai đoạn 2021 – 2030 và những năm tiếp theo. 2. Tổng quan nghiên cứu Từ khi Luật hợp tác xã (HTX) ra đời và được áp dụng vào thực tiễn, những quy định về HTX được coi là chủ đề hấp dẫn của nhiều nhà nghiên cứu. Có một số công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề hoạt động của HTX như: Hội đồng Trung ương Liên minh các HTX Việt Nam (1998), “Kinh tế Hợp tác xã – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Nguyễn Văn Kỷ (chủ biên, 2020), “Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay”; Luận văn cao học của Nguyễn Đức Long (1996), “Những vấn đề pháp lý về đổi mới hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các doanh nghiệp tập thể”. Nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của HTX trong xây dựng nông thôn mới vùng DTTS & MN, tiêu biểu như: Minh Duyên (2020), “Hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới vùng miền núi”; Thành Nhân (2020), “Hợp tác xã Phú Yên: Góp phần hiệu quả xây dựng nông thôn mới”; Bạc Thương (2020), “Đóng góp của kinh tế Hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới”; Tân An (2020), “Xây dựng nông thôn mới: Phát huy vai trò Hợp tác xã nông nghiệp”; Bùi Trang (2020), “Phát triển Hợp tác xã gắn với xây dựng nông thôn mới, những giải pháp phát triển bền vững tiêu chí số 13” Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên cũng chỉ dừng lại ở việc phân tích cơ sở lý luận về HTX, về vai trò của HTX trong xây dựng nông thôn mới ở từng địa phương đơn lẻ, mà chưa có cái nhìn sâu sắc, toàn diện về vai trò của HTX trong việc phát triển kinh tế ở vùng DTTS & MN cũng như đề xuất phương hướng, mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế tập thể, HTX trong xây dựng nông thôn mới ở vùng DTTS&MN hiện nay. 3. Phương pháp nghiên cứu Bày viết sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản như phương pháp thu thập tài liệu sơ cấp, thứ cấp và phương pháp tổng hợp, phân tích CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 2 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH tài liệu. 4. Kết quả nghiên cứu 4.1. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi Kinh tế hợp tác, nòng cốt HTX là loại hình kinh tế phổ biến ở các nước phát triển và đang phát triển, thu hút hầu hết hộ cá thể vùng nông thôn tham gia, phù hợp với phương thức kinh tế chia sẻ, bền vững, gắn với chuỗi giá trị. Trên thế giới hiện có hơn 03 triệu HTX, 1,2 tỷ thành viên; doanh thu hàng năm đạt 3.000 tỷ USD, tác động trực tiếp đến đời sống của ½ dân số và đóng góp 10% GDP toàn cầu. Hà Lan có số thành viên HTX gấp 1,76 lần dân số (30 triệu thành viên/17 triệu dân); tỉnh Quebec (Canada) có 70% dân số là thành viên HTX; tại Mỹ, cứ 10 người thì có 4,2 người là thành viên HTX; Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Cộng hòa Liên Bang Đức, Đài Loan (Trung Quốc), hầu hết hộ nông dân tham gia HTX... Ở nước ta, kinh tế tập thể, HTX là thành phần kinh tế quan trọng, cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tập thể, HTX là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta, được khẳng định trong Nghị quyết số 13-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; Kết luận của Bộ Chính trị số 70- KL/TW ngày 09/3/2020; Luật Hợp tác xã năm 2012 và nhiều văn bản pháp luật có liên quan. Qua các giai đoạn, nhất là từ khi thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, kinh tế tập thể, HTX phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ chế hoạt động được đổi mới, nhiều HTX hoạt động hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, tạo việc làm, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới (NTM), ổn định xã hội, phát triển cơ sở chính trị. Ước đến cuối năm 2020, cả nước có 26.040 HTX, 100 liên hiệp HTX, 119.000 tổ hợp tác (THT); thu hút 8,1 triệu thành viên và 2,5 triệu lao động, tác động trực tiếp đến thu nhập và đời sống của hơn 30 triệu người, chủ yếu ở địa bàn nông thôn; tỷ lệ HTX hoạt động hiệu quả đạt 59%. Vùng DTTS&MN chiếm ¾ diện tích tự nhiên cả nước, gồm 5.266 xã của 548 huyện, thuộc 51 tỉnh, thành phố với hơn 14 triệu người DTTS, chiếm 14,7% dân số cả nước. Đây là vùng trọng yếu, giữ vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), an ninh, quốc phòng của đất nước, nhưng là vùng khó khăn, KT-XH phát triển chậm, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 57,16% trong tổng số hộ nghèo cả nước; sinh kế của người dân chủ yếu là sản xuất nông, lâm nghiệp, thu nhập bình quân bằng ½ so với mức bình quân chung của cả nước. Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 và Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030 có chủ trương “Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân... thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của vùng đồng bào DTTS&MN so với bình quân chung của cả nước; đến năm 2025 giảm 50% số xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; đến năm 2030 cơ bản không còn xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn”. Để đạt được mục tiêu này, một trong những giải pháp có tính chiến lược và nhu cầu khách quan là đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể, HTX vùng DTTS&MN, bởi vì: (1) Vùng DTTS&MN có điều kiện về diện tích, đất đai, khí hậu, thổ thưỡng,... để phát triển nông, lâm nghiệp và dịch vụ nhưng diện tích canh tác nông, lâm nghiệp và mặt nước phân bố không đồng đều. Phần lớn hộ dân có diện tích canh tác nhỏ hơn 0,8ha, tổ chức sản xuất theo mô hình THT, HTX mới có khả năng tập trung ruộng đất, đủ số lượng và chất lượng sản phẩm gắn với chuỗi giá trị, cạnh tranh trên thị trường; (2) THT, HTX kiểu mới được thành lập theo nguyên tắc tự nguyện, công bằng, dân chủ, minh bạch, là cầu nối giúp hộ cá thể và người dân huy động các nguồn lực. Chế độ sở hữu cá thể và tập thể cùng tồn tại và hỗ trợ nhau phát triển, mục tiêu hoạt động chủ yếu là mang lại lợi ích cho thành viên, phù hợp với thực tiễn phát triển, khả năng tích lũy tài sản, năng lực quản trị, tập quán và trình độ sản xuất của người dân; (3) Kinh tế tập thể, HTX đóng góp cho phát triển KT-XH trong các lĩnh vực: Kinh tế - Xã hội - Môi trường - Văn hóa - Cơ sở chính trị. 4.2. Thực tiễn phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi Giai đoạn 2010-2020, Chương trình xây dựng NTM vùng DTTS&MN đạt được kết quả quan trọng: có 1.052/4.719 tổng số xã thuộc vùng DTTS&MN đạt chuẩn NTM (đạt 22,29%), chiếm 22,55% số xã đạt chuẩn NTM của cả nước; 100% số xã đạt chuẩn NTM đều có THT, HTX hoạt động; các tỉnh vùng DTTS & MN đạt bình quân 13,66 tiêu chí/xã, thấp hơn bình quân của cả nước; 103 xã dưới 5 tiêu chí; một số tiêu chí cơ bản hiện có tỷ lệ đạt thấp như giao thông, trường học, thu nhập, môi trường, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều; khoảng cách chênh lệch lớn về kết quả xây dựng NTM giữa các vùng miền của cả nước còn khá lớn. Ước đến cuối năm 2020, vùng DTTS&MN có 12.759 HTX, chiếm 48,9% tổng số HTX của cả CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 3Volume 9, Issue 4 nước, 36 liên hiệp HTX, 62.300 THT; tỷ lệ HTX hoạt động hiệu quả đạt 53%. Hầu hết HTX trong vùng đã chuyển đổi, tổ chức lại hoạt động theo Luật HTX năm 2012; các HTX thành lập từ năm 2013 đến nay đều mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ, chuyển biến tích cực về quy mô, năng lực quản trị cung ứng các dịch vụ đầu vào thiết yếu phục vụ cho thành viên và bước đầu đã cung ứng dịch vụ đầu ra cho các thành viên, có 607 HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị (chiếm 30% số HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị của cả nước), thu hút 3,7 triệu thành viên, tạo 1,15 triệu việc làm, giảm nghèo, ổn định chính trị - xã hội. Những đóng góp của kinh tế tập thể, hợp tác xã trong xây dựng nông thôn mới vùng dân tộc thiểu số và miền núi: (1) Tạo việc làm, tăng thu nhập cho thành viên và người lao động Khu vực kinh tế tập thể, HTX vùng DTTS&MN thu hút hơn 3,7 triệu thành viên, chiếm 37% tổng số thành viên HTX trên địa bàn cả nước, tạo việc làm cho hơn 1,1 triệu lao động, thu nhập bình quân của thành viên, người lao động khu vực HTX nông nghiệp đạt từ 0,7-1,5 triệu đồng/người/tháng, khu vực HTX phi nông nghiệp đạt từ 1,8-3 triệu đồng/ người/tháng. Điển hình như HTX sản xuất nông nghiệp Đạ K’nàng, tỉnh Lâm Đồng, có 07 ha trồng cây dược liệu (nấm linh chi, trà hoa vàng, thảo quả,), 40 ha sản xuất rau củ quả có hiệu quả kinh tế cao, tạo việc làm cho 120 lao động thường xuyên, trong đó chủ yếu là người DTTS, thu nhập trung bình từ 5,7-11 triệu đồng/tháng; HTX nông nghiệp Evergrowth, tỉnh Sóc Trăng, sản xuất, kinh doanh sữa tươi nguyên liệu, thu hút 2.949 thành viên; tạo việc làm thường xuyên cho hơn 3.000 lao động; thu nhập bình quân hộ thành viên đạt trên 8,3 triệu đồng/tháng. (2) Thay đổi nhận thức và tập quán sản xuất; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề cho thành viên và người lao động Tham gia THT, HTX, người dân vùng DTTS&MN dần loại bỏ những phong tục lạc hậu, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, giảm được chi phí sản xuất từ 8-15%, tăng thu nhập từ 14-18%/năm cho các hộ thành viên và người lao động, tạo mối liên kết, hợp tác, tăng sức cạnh tranh; Nhà nước hỗ trợ đào tạo đội ngũ cán bộ quản trị và lao động nông thôn có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường, kỹ thuật sản xuất, công nghệ,...; Điển hình là các HTX thuộc các tỉnh khu vực miền Trung Tây Nguyên (Gia Lai, Đắk Lắk, Đăk Nông,...), khu vực miền núi phía Bắc (Sơn La, Lai Châu, Lào Cai,) đã vận động, tập hợp hầu hết người nông dân sản xuất nhỏ lẻ, manh mún tham gia vào THT, HTX, được đào tạo cách thức sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, thực hiện sản xuất gắn với chuỗi giá trị, có hiệu quả kinh tế cao. (3) Tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất, tăng năng xuất lao động, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, có hiệu quả kinh tế cao Thời gian qua, các HTX vùng DTTS&MN đã tích tụ, tập trung được hơn 1 triệu hecta đất để sản xuất quy mô lớn, hiệu quả hơn; một số tỉnh phát triển vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn phục vụ chế biến và xuất khẩu, điển hình như ở Sơn La, Gia Lai, Phú Yên... nhiều xã đạt chuẩn NTM, trong đó HTX là đơn vị chủ trì xây dựng cánh đồng mẫu lớn, thực hiện tốt công tác dồn điền đổi thửa, sắp xếp, bố trí sản xuất cho thành viên...., nhiều HTX vùng DTTS&MN đã đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật vào sản xuất, năng suất lao động tăng 3-5 lần; một số HTX sử dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý, tiếp cận thị trường, xúc tiến thương mại. Điển hình như HTX Arterria Vĩnh Châu, tỉnh Bạc Liêu sản xuất và tự chế biến thức ăn cho cá dưới dạng trứng Arterria để tiêu thụ và xuất khẩu; HTX Vạn Hoa, tỉnh Lào Cai đã tập trung lực lượng nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nước nhằm hỗ trợ, tổ chức cho thành viên sản xuất rau, hoa quả, giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng cao, giá thành hạ thông qua việc chuyển giao cho thành viên các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. (4) Liên kết giữa các hợp tác xã, giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp để sản xuất gắn với chuỗi giá trị Nhiều HTX vùng DTTS&MN thực hiện liên kết với THT, doanh nghiệp (tập đoàn kinh tế như Lavifood, TH True milk, Tín Thành, Đồng Giao,) và liên kết với nhau thông qua ứng trước vật tư, nguyên liệu cho sản xuất, cung ứng giống cây trồng vật nuôi, tạo vùng nguyên liệu tập trung cung ứng cho các nhà máy, cơ sở sản xuất; ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, xử lý môi trường; tiêu thụ sản phẩm, tạo vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp vùng DTTS&MN. Điển hình như các HTX tại tỉnh Sơn La, Bắc Giang đã liên kết với các doanh nghiệp tạo thành chuỗi cung ứng các loại quả an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, một số sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu như xoài tượng da xanh của HTX nông nghiệp an toàn Chiềng Hặc, tỉnh Sơn La, sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn 14,4ha cây xoài, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc, thị trường Úc, doanh thu năm sau cao hơn năm trước (năm 2017 đạt gần 1,5 tỷ đồng, năm 2018 đạt 2,7 tỷ đồng, năm 2019 đạt 3 tỷ CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 4 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH đồng, năm 2020 đạt 4,6 tỷ đồng). (5) Góp phần phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, giữ gìn bản sắc dân tộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi Hầu hết, các HTX trích một phần tài chính tích lũy từ phần lãi để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng nông thôn như đường giao thông, đường điện, hệ thống kênh mương thuỷ lợi, trường học, nhà trẻ, trạm y tế, nhà văn hoá,...; các thành viên HTX góp công sức và vật liệu, hỗ trợ phương tiện vận tải, vật liệu để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn. Nhiều HTX phát triển sản phẩm OCOP 3 sao, 4 sao gắn với bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số và đã đem lại hiệu quả kinh tế cao. Điển hình như các HTX du lịch cộng đồng, du lịch homestay ở tỉnh Lào Cai, Sơn La..., kết hợp du lịch với mô hình sản xuất sản phẩm truyền thống như thuốc tắm truyền thống, thổ cẩm, tinh dầu, vừa mang lại lợi ích KT- XH, vừa góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá độc đáo của các làng nghề truyền thống. (6) Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững Các HTX nông nghiệp kinh doanh tổng hợp vùng DTTS&MN góp phần phát triển ngành nghề và dịch vụ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đóng góp trực tiếp của khu vực kinh tế tập thể, HTX vùng DTTS&MN vào phát triển kinh tế của các địa phương trong vùng, tăng thu nhập và cải thiện điều kiện sống của người dân; Góp phần quan trọng đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, bảo vệ biên giới, chủ quyền quốc gia, bảo vệ môi trường, gắn với phát triển bền vững, như HTX môi trường, HTX nước sạch, HTX y tế, HTX trường học, HTX lâm nghiệp,...; Các HTX thuỷ hải sản còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền, biển đảo của nước ta. Trong một số lĩnh vực, HTX tạo thêm nhiều ngành nghề, phát triển kinh doanh tổng hợp, giải quyết nhu cầu, lợi ích chính đáng của thành viên và người lao động như đóng bảo hiểm xã hội, thực hiện tốt công tác an toàn vệ sinh lao động,... tinh thần hợp tác, tương thân, tương ái, đoàn kết hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân vùng DTTS&MN. Như vậy, phát triển kinh tế tập thể, HTX có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng NTM vùng DTTS&MN. Tại Kết luận số 70-KL/TW ngày 09/3/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, HTX khẳng định: “Khu vực kinh tế tập thể, HTX, nhất là những năm gần đây có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng,... góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, xoá đói, giảm nghèo cho các thành viên, góp phần xây dựng NTM, bảo đảm an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, từng bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng của khu vực kinh tế tập thể, HTX trong nền kinh tế quốc dân”. Thực tiễn, việc xây dựng NTM vùng DTTS&MN thời gian qua cho thấy, phát triển kinh tế tập thể, HTX là một tiêu chí quan trọng trong các tiêu chí xây dựng NTM (tiêu chí số 13) và có liên quan mật thiết đến các tiêu chí còn lại như: giảm nghèo, thu nhập, môi trường, khoa học, công nghệ;.... là yếu tố và động lực cơ bản góp phần tạo nền tảng thúc đẩy quá trình xây dựng NTM, là nòng cốt trong việc thực hiện các mô hình sản xuất theo quy hoạch; thực hiện tiêu chí nâng cao thu nhập cho nông dân; triển khai các đề án, dự án trong xây dựng NTM; phát huy vai trò của các thành viên HTX trong thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM vùng DTTS&MN. Tuy nhiên, phát triển kinh tế tập thể, HTX vùng DTTS&MN thời gian qua có một số hạn chế: (1) Công tác tổ chức, quản lý điều hành các HTX chưa bắt kịp những thay đổi của thị trường; (2) Thiếu vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng lực tiếp cận thị trường còn yếu; hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế, chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế sẵn có; (3) Thiếu chủ động liên kết, hợp tác trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Nguyên nhân chủ yếu là do: (1) Cơ sở hạ tầng, giao thông yếu kém, khó phát triển sản xuất tập trung, địa bàn chia cắt; (2) Nhận thức về phát triển kinh tế tập thể, HTX của một bộ phận cán bộ, người dân chưa đầy đủ; tư tưởng, tập quán sản xuất nhỏ của bộ phận người dân vùng DTTS&MN chưa thay đổi nhiều; (3) Chưa có chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, HTX vùng DTTS&MN, thiếu nguồn lực thực hiện các chính sách. 5. Thảo luận Thời gian tới, chúng ta cần tập trung nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề khó khăn căn bản của các HTX vùng DTTS&MN trong thời gian qua, đó là hình thức sản xuất và thị trường tiêu thụ Từ đó, đề xuất phương hướng, mục tiêu, giải pháp phát triển kinh tế tập thể, HTX, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới vùng DTTS&MN giai đoạn 2021-2030 như sau: - Phương hướng: Khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh, huy động mọi nguồn lực, đầu tư phát triển mạnh kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó kinh tế tập thể, HTX là động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững; phát triển kinh tế tập thể, HTX vùng DTTS&MN nhanh và hiệu quả; đa dạng về loại hình, hình thức hợp tác; sản xuất gắn với chuỗi giá trị, góp phần tích c
Tài liệu liên quan