Bài viết ngắn này cung cấp sơlược một bức tranh kinh tếthếgiới trước và sau công
nguyên với một vài sốliệu luợng hoá. Điều quan trọng trong lịch sửphát triển kinh tếcho
thấy rằng, mặc dù có một sốnước ban đầu phát triển là do sự đãi ngộtình cờcủa thiên
nhiên. Nhưng thật sựnguyên nhân sâu thẳm bên trong giúp phát triển hoặc kìm hãm kinh
tếcủa một quốc gia theo thời gian là những tưtưởng, ý thức hệxã hội, mê tín tập tục
mà đây là nền tảng đểhình thành thểchếcủa một đất nước. Trong lịch sử, có những thể
chế đón nhận tinh thần khoa học và giúp nó phát triển đểtừ đó tạo sựphát triển mạnh về
kinh tế. Nhưng có những thểchếthì không
Các nước hiện nay được xem là đang phát triển, vào năm 0
chiếm 87% vềdân sốvà làm
ra 88% GDP của toàn thếgiới. Còn lại các nước hiện nay được xếp vào phát triển cao
(hay đã phát triển) có sốdân bằng 13% và làm ra 12% GDP. Sựkhác biệt vềdân sốvà
thu nhập vào thếkỷthứnhất sau công nguyên là không đáng kể. Đến năm 1998, các nước
đang phát triển vẫn chiếm tỷlệdân sốtương tựnhưtrước đây nhưng chỉlàm ra 47%
GDP thếgiới, phần còn lại 53% là của các nước phát triển. Nhưvậy, vềdân sốkhông có
gì sai biệt nhưng thu nhập giữa các quốc gia có một sựthây đổi ghê gớm trong lịch sử
phát triển của nhân loại. Robert M. Solow (Nobel 1987) với mô hình giải thích tăng
trưởng của mình đã dựbáo rằng trong dài hạn các quốc gia có sựhội tụvềthu nhập. Thế
nhưng, trong thực tếrõ ràng không phải là nhưvậy. Điều này cho thấy, nếu chúng ta chỉ
dùng lý thuyết tăng trưởng của tân cổ điển đểphân tích phát triển kinh tếkhông thôi thì
quá thô sơvà khó mà lý giải đầy đủcho xã hội thực vốn dĩnhiều ràng buộc phức tạp (hơn
là những gì mà các nhà kinh tế đã cốgắng xây dựng “mô hình”).
9 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kinh tế thế giới: Nhìn lại lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Phát triển kinh tế thế giới: nhìn lại lịch sử
Nguyễn Hoài Bảo
11/11/2004
Bài viết ngắn này cung cấp sơ lược một bức tranh kinh tế thế giới trước và sau công
nguyên với một vài số liệu luợng hoá. Điều quan trọng trong lịch sử phát triển kinh tế cho
thấy rằng, mặc dù có một số nước ban đầu phát triển là do sự đãi ngộ tình cờ của thiên
nhiên. Nhưng thật sự nguyên nhân sâu thẳm bên trong giúp phát triển hoặc kìm hãm kinh
tế của một quốc gia theo thời gian là những tư tưởng, ý thức hệ xã hội, mê tín tập tục
mà đây là nền tảng để hình thành thể chế của một đất nước. Trong lịch sử, có những thể
chế đón nhận tinh thần khoa học và giúp nó phát triển để từ đó tạo sự phát triển mạnh về
kinh tế. Nhưng có những thể chế thì không1.
Các nước hiện nay được xem là đang phát triển, vào năm 02 chiếm 87% về dân số và làm
ra 88% GDP của toàn thế giới. Còn lại các nước hiện nay được xếp vào phát triển cao
(hay đã phát triển) có số dân bằng 13% và làm ra 12% GDP. Sự khác biệt về dân số và
thu nhập vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên là không đáng kể. Đến năm 1998, các nước
đang phát triển vẫn chiếm tỷ lệ dân số tương tự như trước đây nhưng chỉ làm ra 47%
GDP thế giới, phần còn lại 53% là của các nước phát triển. Như vậy, về dân số không có
gì sai biệt nhưng thu nhập giữa các quốc gia có một sự thây đổi ghê gớm trong lịch sử
phát triển của nhân loại. Robert M. Solow (Nobel 1987) với mô hình giải thích tăng
trưởng của mình đã dự báo rằng trong dài hạn các quốc gia có sự hội tụ về thu nhập. Thế
nhưng, trong thực tế rõ ràng không phải là như vậy. Điều này cho thấy, nếu chúng ta chỉ
dùng lý thuyết tăng trưởng của tân cổ điển để phân tích phát triển kinh tế không thôi thì
quá thô sơ và khó mà lý giải đầy đủ cho xã hội thực vốn dĩ nhiều ràng buộc phức tạp (hơn
là những gì mà các nhà kinh tế đã cố gắng xây dựng “mô hình”).
Nghiên cứu phát triển kinh tế trong mối quan hệ qua lại giữa tư tưởng, văn hoá, chính trị
và công nghệ là một công việc không mới mẻ nhưng hết sức quan trọng nhằm cố gắng
tiệm cận với sự thật cái gì đã làm nên một quốc gia giàu có hơn (hoặc đình trệ) theo thời
gian. Đó cũng là một nguyên nhân căn bản tạo ra một khoảng cách rộng lớn trong phát
triển giữa các nước như ngày hôm nay. Đây cũng là cách mà Douglas C. North đã làm
trong sự nghiệp nghiên cứu của mình và nhận giải Nobel kinh tế năm 1993. Ông là người
1 Thật ra lịch sử cho thấy kinh tế phát triển trước và tạo tiền đề để con người sáng tạo và bắt nguồn cho
khoa học phát triển chứ không phải nguợc lại. Khoa học phát triển lại tạo cơ hội mới cho kinh tế phát triển
nhanh và bền vững hơn theo thời gian. Thể chế (institution) được định nghĩa là những luật lệ của cuộc chơi
trong xã hội, hay một cách chính thức hơn, là những ràng buộc do con người tạo ra để hướng dẫn tương tác
giữa người và người. Kết quả là chúng tạo ra những động cơ khuyến khích trong việc trao đổi của con
người, dù là trong kinh tế, xã hội hay chính trị (North, 1990).
2 Năm 0 là để chỉ năm trước công nguyên, đánh dấu năm sinh của chúa Jesus Christ.
2
có công lớn khám phá vai trò và sự thay đổi của thể chế trong phát triển kinh tế3. Tuy vậy,
đó vẫn chỉ là những hiểu biết ban đầu về vai trò của thế chế trong phát triển vì đây là một
lĩnh vực vô cùng phức tạp và khó lòng lượng hoá.
Việc nghiên cứu lịch sử phát triển kinh tế của các nước và so sánh với nhau cũng đòi hỏi
phải đo lường thành quả rõ ràng và nhất quán. Chẳng hạn, làm sao để biết Trung Quốc và
Việt Nam vào thế kỷ thứ nhất sau công nguyên quốc gia nào giàu có hơn? Angus
Maddison có thể nói là người duy nhất đã từ hơn 30 năm nay bỏ công khai thác toàn bộ
những công trình tính toán GDP ngược dòng lịch sử. Bài viết này dùng các số liệu từ các
công trình nghiên cứu lịch sử kinh tế của Maddison công bố4.
Kinh tế thế giới trước công nguyên
Maddison chỉ tính toán dân số và GDP của nhiều nước trên thế giới từ sau công nguyên
trở lại đây, còn khoảng thời gian trước đó thì không có một tính toán cụ thể nào. Phần lớn
được các nhà khảo cổ hoặc sinh lý học phát hiện những chứng tích rời rạc. Hầu như thời
gian đầu, các bộ tộc phát triển và sinh sôi nảy nở được là nhờ họ sống gần nơi có thiên
nhiên ưu đãi. Đặc biệt là từ khi nông nghiệp phát triển và họ chấm dứt cuộc sống du canh
du cư. Nơi mà nông nghiệp phát triển đầu tiên và khởi đầu nền văn minh nhân loại là
vùng lưỡi liềm màu mỡ hay còn gọi là Lưỡng Hà (Mesopotamia) mà hiện nay là vùng đất
của Iran, Iraq và Syria5. Vùng đất này có nhiều giống cây và động vật hoang sơ mà quan
trọng là có thể thuần hoá được làm mầm móng cho nông nghiệp phát triển. Vùng châu Á
cũng được thiên nhiên ưu đãi như vậy và phát triển. Trung Quốc có cội nguồn xuất phát
từ vùng trung lưu của sông Hoàng Hà, phía bắc của Hà Nam ngày nay. Tiểu lục Ấn Độ
cũng cũng có khởi thuỷ cũng dọc theo thung lũng sông Indus. Trong khi đó vùng châu Úc
thì không có cây cỏ hay động vật nào có thể thuần hoá, ngoại trừ một loại hạt gọi là
macadamia mà nó không thể giúp thổ dân vùng này phát triển nông nghiệp. Họ tiếp tục
sống bằng nghề săn bắn và du mục cho đến khi người phuơng tây đặt chân đến. Châu Mỹ
cũng trong tình trạng tương tự, không một con vật nào có thể thuần hoá. Chính vì thế nên
văn minh ở vùng Lưỡng Hà và Châu Á đã nhanh chóng phát triển và lan chiếm đến các
vùng đất khác. Riêng vùng hậu Sahara và Nam Châu phi cũng không được sự đãi ngộ của
thiên nhiên nhưng lại bị ngăn cách bởi sa mạc Sahara nên các nền văn minh khác không
tràn đến.
Chính điều kiện ban đầu về phát triển kinh tế do sự đãi ngộ tình cờ của thiên nhiên này đã
giúp phát triển các tư tưởng làm nền tảng cho khoa học cho đến ngày nay. Athens của Hy
3 Có thể đọc quyển sách mới nhất của North “Institutions, Intitutional Change and Economic Performance”,
1990, Cambridge University Press. Đã dịch sang tiếng Việt và chương 1 đã phát trong tuần 10 của môn
học.
4 Greory King là người đầu tiên tính thu nhập của Anh vào năm 1696, sau đó Micheal Muha năm 1896 tính
cho 18 nước. Đến năm 1934 Simon Kuznets tính số liệu GDP chính thức cho nước Mỹ. Năm 1954 Hệ
thống Tài khoản Quốc gia của Liên hiệp Quốc ra đời và là chuẩn mực quốc tế. Linh hồn của hệ thống này là
Richard Stone của Anh (Nobel 1984). Maddison dùng các tư liệu lịch sử để tính lại cho nhiều nước trên thế
giới cho đến năm trước công nguyên. Có thể xem các công trình nghiên cứu của Maddison tại:
5 Chính xác hơn, Mesopotamia theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là vùng đất nằm giữa hai con sông. Đó là sông
Tigris và Euphrates.
3
Lạp6 thời cổ đại nằm gần vùng Lưỡng Hà và lại gần biển nên nhanh chóng trở thành một
trung tâm thương mại của khu vực và phát triển, đời sống người dân Athens rất cao thời
bấy giờ. Athens phát triển nhanh hơn các quốc gia thành phố khác một phần là do thiên
nhiên ưu đãi nhưng một phần khác cũng không kém phần quan trọng và có thể nói là
quyết định là chính sách khôn khéo của họ. Vào khoảng 490 trước công nguyên, Athens
cùng với một quốc gia thành phố hùng mạnh khác là Sparta bắt tay nhau để đánh đuổi
quân xâm lăng Ba Tư. Trong cuộc chiến này Sparta cung cấp lục quân còn Athens cung
cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh kết thúc thắng lợi, Sparta giải ngũ quân đội và chịu sự
khủng hoảng kinh tế do giải ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì Athens khôn ngoan hơn,
biến hạm đội tàu chiến thành một hạm đội tàu buôn và trở nên một nước buôn bán giàu
mạnh nhất thời bấy giờ. Athens sản xuất và suất khẩu rượu nho, ô liu, hàng thủ công và
nhập lúa mì để nuôi dân. Những đài đền, nhà hát, đấu trường mà dấu vết còn lại ngày nay
đã chứng tỏ sự thịnh vượng của người dân ở đây.
Chính đời sống kinh tế phát triển cao và độc lập (không phải là nô lệ) cho phép người dân
ở đây tự do suy nghĩ và đòi hỏi về dân chủ, quyền tự do cũng như có điều kiện khám phá
những câu hỏi về vũ trụ, triết học, hình thành tư tưởng. Phần đông những nguỵ luận gia là
những người rất thông minh, họ rất thâm thuý, họ bàn cãi về tất cả những vấn đề mà
người đương thời thắc mắc, họ đặt câu hỏi cho tất cả mọi vấn đề, họ không sợ đụng chạm
đến các tôn giáo hoặc các tư tưởng chính trị của các vua chúa, họ mạnh dạng chỉ trích tất
cả các định chế xã hội hoặc lý thuyết chính trị trước công chúng7.
Điển hình nhất là Socrates, Plato và đặc biệt là Aristotle. Đây là những triết gia đầu tiên
của nhân loại đặt nền móng cho khoa học cho nhiều ngành khác nhau bằng các phương
pháp qui nạp, quan sát, lý luận và tổng hợp8. Sự thịnh vượng đầu tiên này không phải bắt
nguồn từ những tư tưởng của các triết gia vừa kể trên mà là do đấu tranh giai cấp về
quyền lợi xã hội. Các triết gia này chỉ là người ghi lại và phân tích9. Theo Durant10, ở
Athens Quốc hội có quyền tối thượng và là cơ quan tối cao của quốc gia, tối cao pháp
viện gồm trên 1000 thẩm phán (để làm nản lòng những kẻ hối lộ) và số thẩm phán này
chọn theo thứ tự ABC trong danh sách của toàn thể công dân. Athens là đất nước phát
triển nền dân chủ đầu tiên và ở mức độ cao nhất, tất nhiên quan niệm dân chủ thời đó
khác xa cái dân chủ mà chúng ta quan niệm bây giời, nhưng không một chế độ nào dám
thực hành tư tưởng dân chủ cao đến như vậy.
6 Hy Lạp là một đất nước rộng lớn trong đó bao gồm các quốc gia – thành phố (polis). Các polis nổi tiếng
thời đó là Athens, Ithaca, Sparta, Mycenae, Corinth, Macedonia
7 Xem Durant, sdd.
8 Socrates thật ra không để lại một tác phẩm nào mà những tư tưởng của ông đều được viết lại bởi Plato
(các triết gia người Pháp viết tên ông là Platon) - người học trò và cũng là người bạn của ông. Do vậy khó
biết được đâu là tư tưởng của Socrates và đâu là của Plato. Aristotle là học trò của Plato, tư tưởng của ông
phổ biến từ 500 năm trước công nguyên và đã bị đế quốc La Mã xoá sạch cho đến tận thế kỷ thứ 13 mới tìm
lại được.
9 Xem Vũ Quang Việt, 2003, Tìm hiểu quan niệm dân chủ, quyền lực chính trị và cơ sở kinh tế của chúng.
Mimeo
10 Will Durant, “The Story of Philosophy”. Bản dịch tiếng Việt
4
Chính vì Athens là một thành phố quốc gia thực hiện nền dân chủ cao độ như vậy và
ngược lại hẵn với Sparta. Sparta là một nhà nước độc đoán. Phần lớn các tù binh ở đây
đều trở thành nông nô và nhiều cuộc khởi nghĩa nông nô lớn đã xảy ra. Từ bảy tuổi, các
công dân của Sparta phải chịu một chế độ luyện tập khắc nghiệt11. Sự xung đột về đường
lối chính trị này cùng với những tranh chấp về quyền cai trị các vùng đất khác trong Hy
Lạp là nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến đẫm máu giữa Athens và Sparta trong giai đoạn
431-404 truớc công nguyên.
Giai đoạn trước công nguyên Trung Quốc cũng là một vùng huy hoàng về văn hoá và
kinh tế. Vào khoảng 1766-1122 trước Công nguyên, một số thủ lĩnh đầu tiên của Trung
Quốc xuất hiện. Đó là nhà Thương và sau đó nhà Chu thây thế. Thời này thành tựu nông
nghiệp, thuỷ lợi và công cụ sản xuất đã phát triển. Tại cung phủ của nhà Chu, các quan
điểm cơ bản về một xã hội hoàn hảo được nghiền ngẫm. Khổng Tử lúc bấy giờ là một đại
diện xuất sắc và hình thành một hệ thống các nguyên tắc đạo đức công dân ảnh hưởng
xây rộng đến toàn bộ xã hội Trung Quốc và nhiều nước khác lân cận. Sự thịnh vượng này
tiếp tục được xây dựng thêm khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất một quốc gia rộng lớn mà
cơ bản là Trung Quốc ngày hôm nay. Nhưng các nhà tư tưởng lớn như Khổng Tử, Lão Tử
cũng chỉ suất hiện vào trước công nguyên. Nghĩa là từ thời đế quốc Tần, Hán và cho
đến hơn 2 ngàn năm nay Trung Quốc không xuất hiện được những nhà tư tưởng lớn nào
gọi là triết gia.
Giai đoạn 0 – 1000
Trong khoảng thời gian trước công nguyên, ngoại trừ vùng châu Úc, hậu Sahara và Nam
Châu Phi vẫn còn là hoang sơ vì điều kiện tự nhiên quá khắt nghiệt. Nhưng các vùng khác
đều phát triển và không mấy là khác nhau. Mặc dù có những vùng văn minh phát triển
sớm nhưng có thể nói 1000 năm sau công nguyên kinh tế thế giới gần như không có tăng
trưởng. Từ năm 0 đến khoảng năm 476 thu nhập của đế quốc La Mã12 vào khoảng $450
đầu người. Đây là mức được xem là đủ sống và nuôi dưỡng giai cập thống trị. Thế nhưng
đế quốc La Mã suy tàn vào năm 476 do chủ yếu sống bằng cách bóc lột các thuộc địa và
đời sống xa xỉ. Đế quốc La Mã hiếu chiến và các cuộc chiến tranh tốn kém liên tiếp xảy.
Từ đó trở đi, gần 1 ngàn năm dài thu nhập bình quân đầu người chỉ ở mức $400 (đây là
mức và theo Maddison cho là tối thiểu để bảo toàn nòi giống). Trong thời gian dài này
dân số thế giới chỉ tăng từ 129 lên 143 triệu người. Thời kỳ này gọi là thời kỳ đen tối về
phát triển.
Về mặt tư tưởng, đây là thời kỳ thống trị của Công giáo La Mã. Thiên chúa giáo xuất hiện
tại Palestin vào đầu thế kỷ thứ I và nhanh chóng truyền bá sang các nơi khác và hình
thành ba nhóm: Do Thái giáo, Kito giáo và Hồi giáo. Công giáo La Mã là môt nhánh
trong Kito giáo. Thoạt đầu công giáo không giành được thiện cảm của La Mã, nhưng dần
dần đã có uy tín và sức mạnh. Nó đánh dấu khi Hoàng đế La Mã Constantine chính thức
11 Mai Quảng và tgk., 2003, Phát thảo Lịch sử Nhân Loại, NXB Thế Giới.
12 Thời kỳ đầu của La Mã vẫn là một huyền thoại, đến năm 96 trước công nguyên thì La Mã thực sự là một
đế quốc và vùng đất mà La Mã xâm chiếm gồm các vùng vô cùng rộng lớn, bao gồm của Châu Á (phía tây
Thổ Nhĩ Kỳ), Provence (Pháp), Cilicia (nam Thổ Nhĩ Kỳ) và Cyrenaica (đông Liby).
5
công nhận giáo hội vào năm 313 và đến năm 378 ra luật công nhận vai trò cao hơn của
giám mục ở Rome so với các nơi khác. Đó là dấu hiệu mở đầu cho vai trò của giáo hoàng.
Đến năm 800 giáo hoàng Leo III đăng quang cho vua Charlemagne là cột mốc của sự
toàn quyền của thiên chúa giáo đối với lãnh đạo chính trị. Giáo hoàng truớc đây chỉ là
một giám mục ở Rome giờ đây chính thức coi mình là đứng trên vua chúa và có quyền
cách chức hoàng đế, bổ nhiệm các giáo phẩm và cho rằng mình không thể sai lầm. Sự
toàn quyền này đã tạo ra những giáo hoàng mua bán chức tước và đời sống loạn lạc13.
Giáo lý Công giáo cũng xem các sách vở viết về khoa học mà các triết gia ghi lại là ma
quỉ và cần xoá bỏ.
Trong thời kỳ này nhà Hán tiếp tục cai trị Trung Quốc sau khi Tần Thuỷ Hoàng qua đời.
Đế quốc Hán và các đế quốc tiếp theo ở Trung Quốc đều có chung một mô hình. Ban đầu
đều có một chính quyền liêm chính, cai trị có hiệu quả và tiến hành bành trướng lãnh thổ,
nhưng dần dần có sự suy thoái và phân rã. Ở các vùng xa trung tâm, các tướng và các
quan cai trị tăng cường cát cứ, gây dựng quyền lực cá nhân ở địa phương. Nông dân nổi
loạn do gánh nặng thế khoá ngày càng lớn và chế độ trưng binh ngày càng ngặt nghèo.
Về tư tưởng văn hoá, giai đoạn này đạo Phật cũng bắt đầu phổ cập vào Trung Quốc thông
qua con đường thương mại với Ấn Độ. Mặc dù đạo Phật chưa bao giờ thay thế hệ thống
triết học của Khổng Tử nhưng vẫn là một yếu tố quan trọng trong đời sống của người dân.
Quan niệm về sự hưng thịnh của Hoàng đế và quốc gia gắn liền với bản mệnh của Hoàng
đế và nền nếp của Hoàng đế thực hiện các nghi lễ đối với Trời - Đất.
Giai đoạn 1000 – 1500
Cũng như giai đoạn 1000 năm sau công nguyên, 500 tiếp theo tư tưởng khoa học không
thể phát triển và do vậy kinh tế thế giới chỉ phát triển chừng mực do sự thống trị của
Công giáo. Liên tiếp các cuộc thánh chiến chống Hồi giáo xảy ra ở giai đoạn này14. Tuy
nhiên, giai đoạn này giáo hội công giáo Rome đưa ra một số quyết định có tính thống nhất
giúp ổn định xã hội Châu Âu như cưới xin phải làm lễ trong nhà thờ, ly dị phải được giáo
hội cho phép, tu sĩ không được phép lập gia đình và buôn bán, người có đạo mỗi năm
phải xưng tội một lần, người Do thái phải đeo băng vàng để phân biệt.
Sự thống trị của Công giáo có dấu hiệu đi xuống khi tìm lại được tư tưởng khoa học của
Aristotle. Đây cũng là giai đoạn một số lãnh chúa giàu có hơn và người dân biết đọc gia
tăng nên họ tìm lại sách vở thời Hy Lạp từ thế giới Hồi giáo. Giáo hội Công giáo phải mở
các trường đại học ở Anh, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Đức để dạy tiếng Latin
nhằm chống lại tà đạo. Và chính điều này đã tạo ra một sự giao lưu tư tưởng giữa những
địa phương nói tiếng khác nhau. Cũng chính trong các trường đại học này tư tưởng khoa
học của Aristotle đã dần dần được chấp nhập và tạo ra một nền móng của khoa học hiện
đại15.
13 Xem Vũ Quang Việt, 2004, Khái quát về lịch sử phát triển kinh tế thế giới, những yếu tố kiềm hảm và
thúc đẩy phát triển. Mimeo
14 Cuộc thánh chiến giũa Công giáo và Hồi giáo kéo dài từ năm 1096 và chấm dứt năm 1921.
15 Trước đó tư tưởng của Aristotle bị cấm đoán vì cho rằng ngược với niềm tin tôn giáo. Thomas Aquinas là
ngưuời muốn kết hợp tư tưởng của Aristotle với giáo lý Công giáo bị giám mục Paris năm 1277 tuyên bố là
6
Trong suốt giai đoạn này, tuổi thọ trung bình của người Châu Âu không quá 24 năm và
đến cuối năm 1820 cũng chỉ là 26. Lý do là vì con người thường xuyên bị đe doạ bởi
bệnh tật và mất mùa. Tuy nhiên phát triển kinh tế có nhiều hơn đôi chút nhờ thương mại.
Giáo hoàng Công giáo không khuyến khích và cũng không ngăn cấm thương mại. Các
nhà buôn được lập phố chợ buôn bán và được bảo vệ an ninh vì có thu thuế. Một số kỹ
thuật có tính thủ công như là giấy, dệt lụa và dệt vải bằng khung cửi, làm thuỷ tinh đã
ra đời. Các nguyên tắc về kế toán, ngân hàng và ngoại giao thương mại cũng đã nhen
nhóm hình thành. Đặc biệt, năm 1450, một người Đức Johannes Gutenberg đã sáng tạo ra
máy in và đó là một bước ngoặc cho xuất bản và lan truyền kiến thức. Trong thời gian
này, tăng trưởng GDP bình quân trên đầu người của Tây Âu là 0,13% so với 0,1% của
thời kỳ 0-1000.
Về phía khu vực Châu Á, Khổng giáo và Hồi giáo là hai tư tuởng thống trị toàn khu vực
nhưng không tạo được cơ hội cho khoa học phát triển và tự do kinh doanh. Khổng Tử đặt
vài trò của hoàng đế làm trung tâm để quyết định mọi thứ, độc quyền thương nghiệp, tập
trung ca tụng việc học làm quan và đánh giá thấp vai trò người buôn bán kinh doanh.
Chính điều này không thể sản sinh ra được một tầng lớp người giàu độc lập với nhà nước
và hình thành dân chủ như ở Tây Âu. Khoa học vì thế cũng không phát triển. Năm 1500
thu nhập bình quân đầu người của Tây Âu là $770 cao hơn rất nhiều so với Trung Quốc là
$60016.
Hồi giáo bắt đầu hình thành từ đều thế kỷ thứ 7 sau công nguyên tại bán đảo Ảrập và bắt
đầu lan toả rất nhanh đến tất cả các vùng xung quanh bằng các cuộc viễn chinh tôn giáo
lẫn bành trướng lãnh thổi. Thời gian đầu Hồi giáo có một bước tiến rất dài trong các lĩnh
vực khoa học như toán học, hoá học, y học và triết học. Đến năm 1200, trước thời kỳ
Phục Hưng của Châu Âu, Hồi Giáo bắt đầu đi theo các luận điểm phê phán của nhà tư
tưởng al-Ghazali. Việc nghiên cứu “khoa học nước ngoài” đã buộc phải tuân theo lý
thuyết Hồi giáo thần học. Tư tưởng cốt lõi của Hồi giáo là họ tin vào độc thần và thượng
đế báo mộng là đúng, mọi thứ khác đều sai. Chính vì thế mà các tư tưởng độc lập và khoa
học cũng không thể phát triển.
Giai đoạn 1500 – 1820
Cuối thế kỷ 15, hình ảnh nhiều chức sắc công giáo có đời sống quá xa xỉ và bệnh hoạn
cùng với việc cấm dịch thánh kinh ra tiếng địa phương nhằm độc quyền kiến thức đã làm
một số chức sắc bất mãn. Chính sự tự vẫn lương tâm này họ đã lên tiếng phản đối không
tuân theo lệnh của giáo hoàng. Họ bị đuổi khỏi giáo hội và hình thành các phong trào giáo
phái khác và là nguyên nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh liên miên giữa Công giáo và
nguời theo tôn giáo khác17.
tư tưởng tà đạo. Đến mãi sau này khi mà tư tưởng của Aristotle được chấp nhận và Aquinas được phong
thánh năm 1323.
16 Vào thời Nam Tống thế kỷ 13 do bị Mông Cổ chiếm đóng và đẩy Trung Quốc xuống khu vực Hàm Châu
ở miền Nam, Trung Quốc đã xây dựng thuỷ quân hùng mạnh và thương mại trên biển phát triển. Đến thời
nhà Minh năm 1500 Trung Quốc cấm cửa thương nghiệp và thời kỳ thịnh vượng của Trung Quốc chấm dứt.
17 Cũng trong giai đoạn này, Martin Luther (1483 – 1546) ở Đức mở đầu phong trào phê phán và lập ra giáo
phái riêng mà ngày nay ở Việt Nam