Phát triển năng lực dạy học cho giáo viên trẻ ở trung học phổ thông qua con đường tự học, tự bồi dưỡng

Tóm tắt. Để phát triển năng lực dạy học, có nhiều con đường, cách thức khác nhau, trong đó, tự học, tự bồi dưỡng là phương thức tốt nhất giúp giáo viên trẻ chủ động và nhanh chóng tiếp cận với những tri thức, kĩ năng mới để hoàn thiện và nâng cao năng lực của bản thân, đồng thời tránh được sự tụt hậu trước sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhờ có tự học mà nhiều giáo viên trẻ đã thành công trong sự nghiệp. Cho đến nay, đã có khá nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên. Tuy nhiên, những nghiên cứu về tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên trẻ để phát triển năng lực dạy học thì chưa được quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ điều đó, bài viết này tập trung vào 3 nội dung chính: (1) Tự học, tự bồi dưỡng và vai trò, ý nghĩa của nó trong việc phát triển năng lực dạy học của giáo viên trẻ; (2) Những lí do vì sao giáo viên trẻ phải tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực dạy học; (3) Biện pháp nâng cao kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng cho giáo viên trẻ để phát triển năng lực dạy học.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 182 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển năng lực dạy học cho giáo viên trẻ ở trung học phổ thông qua con đường tự học, tự bồi dưỡng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2020-0023 Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4C, pp. 22-30 This paper is available online at PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC DẠY HỌC CHO GIÁO VIÊN TRẺ Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUA CON ĐƯỜNG TỰ HỌC, TỰ BỒI DƯỠNG Phạm Thị Kim Anh Trung tâm Nghiên cứu Giáo viên, Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Để phát triển năng lực dạy học, có nhiều con đường, cách thức khác nhau, trong đó, tự học, tự bồi dưỡng là phương thức tốt nhất giúp giáo viên trẻ chủ động và nhanh chóng tiếp cận với những tri thức, kĩ năng mới để hoàn thiện và nâng cao năng lực của bản thân, đồng thời tránh được sự tụt hậu trước sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhờ có tự học mà nhiều giáo viên trẻ đã thành công trong sự nghiệp. Cho đến nay, đã có khá nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên. Tuy nhiên, những nghiên cứu về tự học, tự bồi dưỡng của giáo viên trẻ để phát triển năng lực dạy học thì chưa được quan tâm nghiên cứu. Xuất phát từ điều đó, bài viết này tập trung vào 3 nội dung chính: (1) Tự học, tự bồi dưỡng và vai trò, ý nghĩa của nó trong việc phát triển năng lực dạy học của giáo viên trẻ; (2) Những lí do vì sao giáo viên trẻ phải tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực dạy học; (3) Biện pháp nâng cao kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng cho giáo viên trẻ để phát triển năng lực dạy học. Từ khóa: giáo viên trẻ, tự học, tự bồi dưỡng, năng lực dạy học, trung học phổ thông. 1. Mở đầu Tự học, tự bồi dưỡng là con đường phát triển nội sinh để hoàn thiện và phát triển năng lực bản thân. Chỉ khi nào phát huy được nội lực tự học bên trong thì kết quả thu được mới vững chắc. Năng lực dạy học (NLDH) của mỗi giáo viên (GV) cũng vậy, nó không bao giờ là cái tự đến, mà là phẩm chất bên trong của mỗi cá nhân thông qua quá trình học tập và rèn luyện. Do đó ngoài việc được đào tạo, bồi dưỡng, GV trẻ cần tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm qua con đường tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao NLDH của mình. K.Đ.Usinxki từng nói: Người GV còn sống chừng nào họ còn học, khi họ ngừng việc học thì con người GV trong họ cũng chết liền [1]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Học phải lấy tự học làm cốt” [2; tr.312] và “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời” [3; tr.480]. Điều đó cho thấy việc tự học, tự bồi dưỡng có ý nghĩa sống còn đối với mỗi người nói chung và phát triển năng lực chuyên môn của người GV nói riêng. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay chúng ta thấy rất rõ rằng, ý thức tự học, tự bồi dưỡng trong phát triển NLDH của đội ngũ GV nói chung, GV trẻ ở THPT nói riêng chưa cao. GV chưa nhận thức được tự học là một trong những con đường để hoàn thiện và nâng cao năng lực nghề nghiệp cũng như NLDH của bản thân. Chủ nghĩa kinh nghiệm và sự tự tin thái quá đã và đang là lực cản không nhỏ đến việc tự học, tự bồi dưỡng của GV. Một số GV trẻ tuy có ý thức tự học nhưng còn thiếu kĩ năng. Động lực chính thúc đẩy họ phải tự học là để vượt qua kì thi vào biên chế hoặc để đạt chuẩn nghề nghiệp theo yêu cầu, chứ chưa xuất phát từ nhu cầu tự thân. Trong Ngày nhận bài: 15/3/2020. Ngày sửa bài: 26/3/2020. Ngày nhận đăng: 7/4/2020. Tác giả liên hệ: Phạm Thị Kim Anh. Địa chỉ e-mail: phamkimanh279@yahoo.com.vn Phát triển năng lực dạy học cho giáo viên trẻ ở trung học phổ thông qua con đường tự học, tự bồi dưỡng 23 khi đó, năng lực nghề nghiệp cũng như NLDH của họ còn có nhiều hạn chế. Các nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Dung (2016) [4], Phạm Thị Kim Anh (2018) [5], Đào Thị Oanh (2010) [6] và nhiều tác giả khác ở trong nước đều chỉ ra rằng, đa số GV trẻ mới bước vào nghề gặp không ít khó khăn, thách thức cả trong dạy học (DH), giáo dục và quản lí học sinh (HS), bởi năng lực sư phạm của họ còn non yếu. Theo Nguyễn Thị Kim Dung [4] và Phạm Thị Kim Anh: “Họ không chỉ non yếu về các kĩ năng: thiết kế giáo án, phân bố thời gian giảng dạy, diễn đạt, cách đặt câu hỏi, giáo dục HS cá biệt, quản lí lớp học, phối hợp với cha mẹ HS và cộng đồng, xử lí các tình huống sư phạm, lập kế hoạch GD, thiết lập mối quan hệ với HS mà còn rất thiếu kĩ năng mềm (thiếu nhất là kĩ năng giao tiếp, kĩ năng kiềm chế cơn nóng giận và kĩ năng giải tỏa cảm xúc tiêu cực)” [7; tr.17]. Bởi vậy, họ cần phải tự học, tự bồi dưỡng trong thực tiễn để nâng cao NLDH của mình. Ngày nay nhà trường phổ thông hiện đại đòi hỏi GV phải trở thành GV chuyên nghiệp với bốn vai trò căn bản: (1) nhà giáo dục chuyên nghiệp (tức là nhà sư phạm); (2) nhà nghiên cứu ứng dụng (tức là nhà nghiên cứu thực hành); nhà văn hoá (tức là nhà canh tân xã hội); và là (3) người học suốt đời (tức là chuyên gia về học [8; tr.19]. Với 4 vai trò đó, nếu GV trẻ không biết tự học, tự bồi dưỡng thì không thể đáp ứng được những yêu cầu mới trong vai trò của mình. Xuất phát từ những điều đó, nhiều tác giả trong và ngoài nước đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề tự học, tự nghiên cứu, tự đào tạo của GV. Tiêu biểu là Patrice Pelpel (1998) [9]; N.A .Rubakkin (1982) [10]; Nguyễn Cảnh Toàn - Nguyễn Kỳ (1997, 2001) [11-12]; Nguyễn Trí (1998 [13]; Vũ Quốc Chung, Lê Hải yến (2003) [14]; Nguyễn Thị Thọ (2016) [15], Đào Thị Oanh (2017) [16]. Đặc biệt, Kỉ yếu Hội thảo khoa học của Viện nghiên cứu giáo dục, Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh với chủ đề ‘Nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu cho GV phổ thông đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” (2013) [17] đã tập hợp được 75 bài viết của nhiều tác giả xoay quanh vấn đề tự học, tự nghiên cứu của GV phổ thông. Tuy nhiên, chưa có những bài viết chuyên sâu về phát triển NLDH cho đội ngũ GV trẻ ở THPT qua con đường tự học, tự bồi dưỡng. Do đó, trong bài viết này chúng tôi sẽ tập trung vào 3 nội dung chính: (1) Tự học, tự bồi dưỡng và vai trò, ý nghĩa của nó trong việc phát triển NLDH của GV trẻ; (2) Những lí do vì sao GV trẻ phải tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao NLDH; (3) Biện pháp nâng cao kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng cho GV trẻ để phát triển NLDH. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Tự học, tự bồi dưỡng và vai trò, ý nghĩa của nó trong việc phát triển năng lực dạy học của giáo viên trẻ 2.1.1. Tự học, tự bồi dưỡng - Tự học: Nhà Tâm lí học N.A. Rubakhin quan niệm rằng, tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học [9]. Theo Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan và thế giới quan ( như trung thực, khách quan, chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý chí muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình” [12; tr.621]. Đồng tình với quan niệm đó, Lê Khánh Bằng đã định nghĩa về tự học: Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lí để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định [18]. Một số ý kiến khác cho rằng, tự học là loại hình đào tạo miễn phí, là hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân, là hoạt động ngoài các bức tường của nhà trường (không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy) và do cá nhân tự tiến hành, không có sự trợ giúp của người dạy. Người học Phạm Thị Kim Anh 24 hoàn toàn tự do lựa chọn môn học, phương pháp học cũng như nguồn tài liệu cho bản thân. Như vậy, đặc trưng cơ bản của tự học là tính độc lập của cá nhân rất cao, động cơ học tập mang tính “nội sinh”, phương pháp và hình thức học tập đa dạng. Tự học của mỗi GV bao gồm các hình thức: Đọc sách, nghiên cứu các tài liệu liên quan đến việc DH; nghiên cứu khoa học theo một vấn đề xác định; tham gia vào các hoạt động chuyên môn của tổ/nhóm trong nhà trường; dự giờ để học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp; quan sát và tìm hiểu thực tiễn để có thêm kinh nghiệm, kĩ năng giảng dạy... Về phương pháp tự học, N.A Rubakhin chỉ ra rằng: Hãy mạnh dạn tự đặt câu hỏi rồi tự tìm lấy câu trả lời , đó là phương pháp tự học [9]. Ông còn nhấn mạnh: Tự học không chỉ là xem sách mà phải biết so sánh cái viết trong sách với thực tế cuộc sống, biết so sánh cái khoa học với cái không khoa học. Không nên sợ bất đồng với ý kiến người khác, không nghiên cứu cái chung chung mà phải nghiên cứu vấn đề đang tranh luận, những vấn đề tất yếu của thời đại để mở rộng tầm nhìn cho bản thân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường khuyên cán bộ:“Học cốt thiết thực, chu đáo, hơn tham nhiều”; “Học phải suy nghĩ, phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau” [19, tr131];“Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đối với bất kì vấn đề gì, đều phải đặt câu hỏi: Vì sao?, đều phải suy nghĩ kĩ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lí không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều” [20, tr164]. Người còn căn dặn, ngoài việc học ở trường, ở sách vở, cần học ở ngoài đời, ở cuộc sống, ở mọi người và học lẫn nhau. Điểm yếu của việc tự học là thiếu sự chỉ đạo, dẫn dắt, thiếu thông tin phản hồi cũng như tính hệ thống trong quá trình tự học. Tóm lại: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức hay kĩ năng ở một lĩnh vực chuyên môn nào đó bằng hành động và phương tiện của chính mình lựa chọn, nhằm đạt được mục đích đề ra. Trong tự học, người học có thể học thường xuyên, học suốt đời và học mọi lúc, mọi nơi. -Tự bồi dưỡng: theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ sung kiến thức, kĩ năng, thái độ nhằm nâng cao năng lực, trình độ nghề nghiệp” [tr.36]. Thực chất của việc bồi dưỡng là làm giàu vốn kiến thức, nâng cao hiệu quả lao động từ việc bồi đắp kiến thức thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới để mở mang những tri thức, kĩ năng, nghiệp vụ. Từ khái niệm này, chúng tôi quan niệm: Tự bồi dưỡng là việc GV độc lập, tự giác cập nhật, bổ sung thêm những kiến thức, kĩ năng mới để nâng cao, hoàn thiện trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và thái độ nghề nghiệp nhằm thực hiện tốt những yêu cầu mới của việc DH trong nhà trường. Như vậy, quan niệm về “Tự học” ở đây cũng đồng nghĩa với “Tự bồi dưỡng”. 2.1.2.Vai trò, ý nghĩa của việc tự học, tự bồi dưỡng trong việc phát triển NLDH của GV trẻ - Tự học, tự bồi dưỡng là một đòi hỏi, một yêu cầu tất yếu, khách quan đối với mỗi GV từ lúc vào nghề cho đến lúc nghỉ hưu. Tự học, tự bồi dưỡng không chỉ giúp GV trẻ củng cố, nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo về DH mà còn giúp họ hiểu sâu và mở rộng vốn kiến thức về phương pháp DH, tránh được sự lạc hậu trước sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ trong thời đại CM 4.0. - Tự học, tự bồi dưỡng là phương thức tốt nhất để giúp GV trẻ khắc phục nghịch lí: kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và phương pháp dạy học thì vô hạn mà thời gian học tập tại trường sư phạm cũng như các khóa bồi dưỡng GV lại có hạn. - Tự học, tự bồi dưỡng là chìa khóa để nâng cao chất lượng người thày, giúp GV trẻ phát triển chuyên môn liên tục, thúc đẩy sự thành công của mỗi GV, tiến tới đạt chuẩn GV ở các mức độ cao, có đủ phẩm chất và NLDH đáp ứng với những yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển GD. Phát triển năng lực dạy học cho giáo viên trẻ ở trung học phổ thông qua con đường tự học, tự bồi dưỡng 25 - Sự thành công trong tự học, tự bồi dưỡng của GV trẻ còn là tấm gương có sức lan tỏa mạnh mẽ đến việc học tập của HS, đến sự phát triển của cộng đồng sư phạm và sự phát triển của nhà trường, xã hội. 2.2. Vì sao GV trẻ phải tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao NLDH - Thứ nhất, trong quá trình đào tạo sư phạm, các cơ sở đào tạo giáo viên (ĐTGV) mới chỉ trang bị và cung cấp cho sinh viên (SV) những kiến thức, kĩ năng nền tảng, thiết yếu ban đầu để làm nghề DH theo chuẩn đầu ra. Sau khi tốt nghiệp đại học, bước vào thế giới công việc đa dạng và đầy phức tạp ở trường phổ thông, GV trẻ chưa đủ tự tin để bắt tay ngay vào công việc thực sự của một nhà giáo cũng như vượt qua các khó khăn, thách thức, mà họ phải đối mặt trong thực tiễn. Các nghiên cứu về GV trẻ của Nguyễn Thị Kim Dung [4], Phạm Thị Kim Anh [5], đặc biệt là nghiên cứu của cộng đồng châu Âu trong dự án The Consortium Generational Change in the Teaching Profession [21] đã chỉ rõ: những GV trẻ mới vào nghề ở các trường học thường gặp nhiều khó khăn liên quan đến: (1) khả năng thích ứng với môi trường thực tiễn ở các trường học (sự không đầy đủ của trang thiết bị DH, việc quản lí và tổ chức công việc trong trường học, quản lí hành chính trong nhà trường,); (2) thiếu hiểu biết về HS và khả năng xử lí các tình huống bất thường của HS; (3) vấn đề liên quan đến kĩ năng sư phạm (như cách thức thúc đẩy động lực học tập của HS, khả năng giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ không đủ đáp ứng yêu cầu của bài giảng, thiếu phương pháp luận, thiếu tự tin trong giải quyết các vấn đề sư phạm, kĩ năng quản lí kỉ luật HS, cách thức đánh giá các kết quả đầu ra và hoạt động của HS,); (4) mối quan hệ với phụ huynh HS; và (5) trong mối quan hệ với các GV khác trong trường. Do đó, để DH được tốt và đạt chuẩn nghề nghiệp GV thì họ cần phải có quá trình rèn luyện, phấn đấu trong một thời gian dài nhất định. Vì thế, GV trẻ cần phải tiếp tục rèn luyện, tự học và tự bồi dưỡng trong môi trường phổ thông mới có thể đáp ứng với việc giảng dạy. - Thứ hai, thực tiễn quá trình DH ở trường phổ thông đòi hỏi nội dung và phương pháp luôn phải đổi mới không ngừng để đáp ứng với yêu cầu của xã hội và thời đại. Chính sự đổi mới đó buộc GV phải tự học để theo kịp và làm chủ nội dung và phương pháp DH. - Thứ ba, đối tượng HS ngày nay phát triển về mọi mặt, nhanh nhạy với cái mới, đặc biệt là cách tiếp cận thông tin. Điều đó đặt ra cho GV những yêu cầu ngày càng mới. Nếu GV không biết tự học để cập nhật và nâng cao kiến thức sẽ nhanh chóng tụt hậu và không thể có những kiến thức sâu rộng, uyên thâm để dạy học trò. - Thứ tư, công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền GD Việt Nam, đặc biệt là việc đổi mới chương trình, sách giáo khoa (CT-SGK) sau 2020 đang đặt ra nhiều thách thức đối với đội ngũ GV trẻ mới vào nghề. Làm thế nào để họ có đủ NLDH theo chương trình mới với định hướng chuyển từ truyền thụ nội dung kiến thức sang phát triển năng lực HS, đồng thời biết DH tích hợp, phân hóa, DH trải nghiệm đang là một bài toán cần giải quyết đối với mọi GV. Nếu GV trẻ không biết tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao NLDH thi khó có thể thực hiện được những yêu cầu đổi mới. - Thứ năm, trong chương trình GD phổ thông mới, “tự chủ và tự học” là một trong những năng lực cơ bản, cốt lõi cần hình thành và phát triển cho HS. Điều này đòi hỏi GV phải có kĩ năng về tự học để từ đó rèn luyện cho HS năng lực tự học và học suốt đời. Qua đó, thực hiện tốt mục tiêu của đổi mới GD là phát huy tối đa khả năng tự học của HS, giúp HS tự khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, với vai trò tổ chức, hướng dẫn quá trình DH thì GV phải là tấm gương tự học, thành thạo trong các kĩ năng tự học. - Thứ sáu, hiện nay Chương trình và quy chế bồi dưỡng thường xuyên GV đang được xây dựng theo định hướng phát triển năng lực tự học, tự bồi dưỡng của GV. Muốn thực hiện được điều này, mọi GV phải có kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng. - Thứ bảy, trong bối cảnh khoa học, kĩ thuật phát triển nhanh chóng, khối lượng kiến Phạm Thị Kim Anh 26 thức không ngừng tăng lên theo cấp số nhân, đặc biệt là cuộc CM 4.0 với công nghệ mang tính đột phá như: trí tuệ nhân tạo, Intrernet của vạn vật, máy tính lượng tử, điện toán đám mây, hệ thống dữ liệu nhanhđã tác động mạnh mẽ và làm thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và GD. Nếu GV trẻ không biết tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao NLDH của mình thì rất dễ bị đào thải trong một xã hội hiện đại. Với tất cả lí do đó, GV trẻ phải tự trang bị cho mình kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng suốt đời để nâng cao NLDH. 2.3. Biện pháp nâng cao kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng cho giáo viên trẻ để phát triển năng lực dạy học 2.3.1. Nâng cao ý thức, trách nhiệm cho giáo viên trẻ trong tự học, tự bồi dưỡng để phát triển năng lực dạy học Mục tiêu của biện pháp này nhằm làm cho GV trẻ có nhận thức đầy đủ về ý thức, trách nhiệm trong việc tự học, tự bồi dưỡng, từ đó có mục tiêu, động cơ học tập đúng đắn và hình thành thói quen, niềm đam mê học tập suốt đời để không ngừng nâng cao các NLDH. Chỉ khi có nhận thức đúng, GV trẻ mới trở thành chủ thể thực sự của việc học, tự giác, chủ động lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới trong thực tiễn dạy học ở nhà trường. Muốn thực hiện được biện pháp này, các cấp quản lí cần làm cho mọi GV trẻ hiểu rõ và thấm nhuần quan điểm: “Một nghề đặt trong bối cảnh học suốt đời” để họ không ngừng nâng cao trình độ và năng lực nghề nghiệp; phải làm cho họ thấy rõ vai trò, ý nghĩa của việc tự học, tự bồi dưỡng trong phát triển năng lực chuyên môn; bản chất của việc tự học, tự bồi dưỡng; các hình thức, con đường và phương pháp tự học, tự bồi dưỡng. Ngoài ra, cần đẩy mạnh tuyên truyền, động viên, khuyến khích GV tự học, tự bồi dưỡng bằng cơ chế, chính sách quản lí phù hợp như: đánh giá, xếp loại, đề bạt, khen thưởng, nêu gương, phê bình... để GV trẻ tự tin vào bản thân mình, có hứng thú và động lực tích cực phấn đấu. Bên cạnh đó, cần tạo ra những tình huống, động lực chính để thúc đẩy nhu cầu, ý thức tự học cho GV trẻ (VD: cho GV tự đánh giá để thấy rõ khoảng trống trong vốn kiến thức, kĩ năng của mình; đưa ra một số tình huống thực tế và yêu cầu GV trẻ phải giải quyết nhiệm vụ mà bản thân chưa thực hiện bao giờ, hoặc đề nghị GV trẻ phải đưa ra quan điểm của mình về một nội dung, phương pháp DH đang có nhiều ý kiến khác nhau; hay chỉ ra những thiếu hụt, kém hiểu biết về một vấn đề nào đó của GV trẻ...). Đây chính là một trong những biện pháp rất hữu hiệu để nâng cao ý thức, trách nhiệm của GV trẻ trong việc tự học, tự bồi dưỡng. Trong một số trường hợp cần thiết, phải có những yêu cầu riêng hoặc có qui định rõ ràng về việc tự học, tự bồi dưỡng để buộc GV có ý thức về việc tự học của mình. Khơi dậy ý thức, trách nhiệm nghề nghiệp, danh dự cá nhân, danh dự tập thể để GV trẻ cố gắng tự học. 2.3.2. Trang bị và rèn luyện những kĩ năng tự học, tự bồi dưỡng cho giáo viên trẻ Muốn tự học, tự bồi dưỡng đạt hiệu quả, phải có kĩ năng về tự học. Kĩ năng tự học chính là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng những kinh nghiệm liên quan đến hoạt động đó. Các nhà nghiên cứu đã phân chia những kĩ năng tự học theo nhiều cách khác nhau. Theo Nguyễn Quang Uẩn- Trần Quốc Thành (1992) [22], kĩ năng tự học được phân chia làm 4 nhóm, đó là: kĩ năng định hướng; kĩ năng thiết kế (lập kế hoạch); kĩ năng thực hiện kế hoạch và kĩ năng kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm. Căn cứ vào đặc điểm, tính chất nghề nghiệp và yêu cầu của thực tiễn, chúng tôi xác định những kĩ năng cơ bản sau đây cần trang bị cho GV trẻ để họ tự học suốt đời: - Kĩ năng lập kế hoạch tự học (xác định rõ mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp, thời gian và các công việc cần thực hiện...); - Kĩ năng xác định, lựa chọn những vấn đề cần học; Phát triển năng lực dạy học cho giáo viên trẻ ở trung học phổ thông qua con đường tự học, tự bồi dưỡng 27 - Kĩ năng thu thập, xử lí và khai thác các nguồn tài liệu tham khảo từ các kênh khác nhau (sách, tạp chí, video, tivi, Internet...); - Kĩ năng đọc, ghi chép, quan sát, phân tích các hoạt động giảng dạy của GV qua các tiết dự giờ để học tập và rút kinh nghiệm; - Kĩ năng đặt câu hỏi, phân tích, tổng hợp, vận dụng kiến thức đã học vào công việc của mình; - Kĩ năng giao tiếp (lắng nghe và phản hồi tích cực) với chuyên gia và đồng nghiệp; -Kĩ năng chia sẻ thông tin với đồng nghiệp qua sinh hoạt chuyên môn hay qua Facbook, mạng xã hội. - Kĩ năng sử dụng công nghệ th
Tài liệu liên quan